Quản trị rủi ro tại Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã

Nghiên cứu - Trao đổi
Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã (Quỹ HTPT HTX) được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 nhằm hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm, đổi mới phát t...
aa

Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã (Quỹ HTPT HTX) được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 nhằm hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm, đổi mới phát triển công nghệ, kỹ thuật; phát triển thị trường, mở rộng tiêu thụ sản phẩm; xây dựng, phát triển và nhân rộng các mô hình HTX, liên hiệp HTX mới và các mô hình HTX điển hình tiên tiến. Quỹ HTPT HTX là tổ chức tài chính Nhà nước, có tư cách pháp nhân, vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp...

Đặt vấn đề

Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã (Quỹ HTPT HTX) được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 nhằm hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm, đổi mới phát triển công nghệ, kỹ thuật; phát triển thị trường, mở rộng tiêu thụ sản phẩm; xây dựng, phát triển và nhân rộng các mô hình HTX, liên hiệp HTX mới và các mô hình HTX điển hình tiên tiến. Quỹ HTPT HTX là tổ chức tài chính Nhà nước, có tư cách pháp nhân, vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp.

Thực tiễn trong những năm qua, Quỹ HTPT HTX đã có những đóng góp nhất định vào việc phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là HTX, liên hiệp HTX thông qua hoạt động cho vay. Ngày 31/3/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/2021/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ HTPT HTX. Theo đó, hoạt động của Quỹ đa dạng và mở rộng hơn. Để Quỹ trở thành công cụ tài chính hoạt động ổn định, hiệu quả, vấn đề quản trị rủi ro không thể xem nhẹ. Bài viết này sẽ phân tích để nhận diện các rủi ro mà Quỹ có thể phải đối mặt trong quá trình hoạt động và đề xuất một số biện pháp nhằm quản trị rủi ro tại Quỹ.



Những năm qua, Quỹ HTPT HTX đã có những đóng góp nhất định vào việc phát triển kinh tế tập thể

1. Vai trò của Quỹ HTPT HTX đối với sự phát triển của kinh tế tập thể

Kinh tế tập thể là một trong bốn thành phần trong nền kinh tế quốc dân (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), có vai trò quan trọng đối với phát triển nền kinh tế Việt Nam thông qua việc cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Trong những năm qua, kinh tế tập thể phát triển mạnh về số lượng, hiệu quả hoạt động ngày càng cải thiện. Đến nay, cả nước có hơn 26 nghìn HTX, liên hiệp HTX, đã thu hút được hơn 8 triệu thành viên, trong đó phần lớn là trên địa bàn nông thôn. Hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX, liên hiệp HTX đã và đang góp phần quan trọng vào việc xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo bền vững; hàng năm đóng góp trực tiếp khoảng 4,8%, và gián tiếp trên 30% GDP cả nước trên cơ sở giá trị gia tăng1.

Quỹ HTPT HTX là một tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2006 với vốn điều lệ ban đầu là 100 tỷ đồng để hỗ trợ phát triển hoạt động của kinh tế tập thể, HTX. Ngày 22/6/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 23/2017/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg và ban hành Quy chế hoạt động bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ HTPT HTX, theo đó, đến năm 2018 vốn điều lệ của Quỹ là 500 tỷ đồng và đến năm 2020 đạt 1.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, tính đến hết tháng 11/2020, vốn điều lệ của Quỹ thực cấp chỉ là 450 tỷ đồng. Mặc dù với số vốn ít ỏi, nhưng Quỹ đã hỗ trợ được nhiều HTX đầu tư vào dự án kinh doanh. Tính đến cuối năm 2020, Quỹ đã ký hợp đồng cho vay hơn 270 dự án đối với các hợp tác xã và đã giải ngân 436,1 tỷ đồng, dư nợ đến cuối năm 2020 ước đạt 378 tỷ đồng2.

Với Nghị định số 45/2021/NĐ-CP của Chính phủ, hoạt động của Quỹ được mở rộng và đa dạng hơn. Cùng với hoạt động cho vay trực tiếp trên phạm vi toàn quốc, Quỹ HTPT HTX có thể ủy thác vốn cho Quỹ HTPT HTX địa phương và/hoặc các tổ chức tài chính, tín dụng khác để thực hiện hoạt động cho vay. Về nguồn vốn, Quỹ HTPT HTX được tiếp nhận và quản lý nguồn vốn ủy thác từ các tổ chức, cá nhân; có thể huy động vốn thông qua việc vay của các tổ chức, cá nhân, huy động vốn theo các hình thức phù hợp. Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi Quỹ có thể gửi tại các tổ chức tín dụng hoặc/và các Quỹ HTPT HTX địa phương. Ngoài các hoạt động liên quan đến tín dụng, Quỹ còn có hoạt động khác như tư vấn tài chính, đầu tư,…

Mặc dù, vốn của Quỹ do Ngân sách Nhà nước cấp, nhưng Quỹ HTPT HTX hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, bảo toàn và phát triển vốn.

2. Nhận diện rủi ro trong hoạt động của Quỹ HTPT HTX

Quỹ HTPT HTX là tổ chức tài chính, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ nên chứa đựng các rủi ro vốn có. Phạm vi hoạt động của Quỹ càng đa dạng, càng mở rộng thì rủi ro càng cao. Việc phân tích để nhận diện các rủi ro mà Quỹ có thể gặp phải trong quá trình hoạt động sau đây dựa trên quan điểm riêng và lý thuyết chung về rủi ro trong hoạt động, kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng và phạm vi hoạt động được phép cũng như đặc thù của Quỹ.

Thứ nhất, rủi ro trong cho vay

Quỹ HTPT HTX là tổ chức tài chính, có hoạt động cho vay, do đó cũng sẽ gặp những rủi ro trong quá trình cho vay.

Nguyên nhân rủi ro thì có nhiều. Về nguyên nhân chủ quan, có thể kể đến là chính sách cho vay; trình độ của cán bộ, nhân viên, bao gồm năng lực nhận diện rủi ro, quản lý rủi ro; chất lượng bảo đảm tiền vay không đáp ứng yêu cầu; kiểm soát khách hàng vay sau giải ngân không được chú trọng nhằm xác định việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, đánh giá khả năng trả nợ và sự hiện hữu cũng như giá trị tài sản bảo đảm (đối với Quỹ HTPT HTX, việc kiểm tra sau giải ngân là rất quan trọng, vì Quỹ có trụ sở ở Hà Nội, trong khi đó khách hàng vay vốn của Quỹ nằm rải rác ở tất cả các địa phương trên toàn quốc, đa phần ở vùng sâu, vùng xa, không thuận tiện cho việc đi lại và Quỹ không thực hiện quản lý tài khoản thanh toán của khách hàng). Về khách quan, rủi ro trong cho vay phát sinh từ nhiều yếu tố khác nhau như: Hệ thống pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước; biến động chu kỳ của nền kinh tế; tình hình kinh tế vĩ mô; biến động xã hội;…

Thứ hai, rủi ro tập trung

Đối với các tổ chức tín dụng, thì nội hàm của khái niệm rủi ro tập trung là những rủi ro do có hoạt động kinh doanh tập trung vào một khách hàng (bao gồm người có liên quan), đối tác, sản phẩm, giao dịch, ngành, lĩnh vực kinh tế, loại tiền tệ ở mức độ có tác động đáng kể đến thu nhập, trạng thái rủi ro.

Đối với Quỹ HTPT HTX, rủi ro tập trung có thể hiểu là rủi ro do Quỹ tập trung cho vay, bao gồm cho vay trực tiếp và ủy thác cho vay một khách hàng (bao gồm khách hàng và người có liên quan), tập trung cho vay vào một địa phương, ngành nghề, sản phẩm kinh doanh của khách hàng; tập trung ủy thác vốn/gửi vốn tạm thời nhàn rỗi cho/tại một ngân hàng hay một Quỹ HTPT HTX địa phương. Hệ quả là khi rủi ro xảy ra, giá trị thất thoát sẽ lớn. Đối với Quỹ HTPT HTX hạn chế về nguồn vốn thì rủi ro tập trung càng trở nên nghiêm trọng.

Rủi ro tập trung có nhiều nguyên nhân khác nhau: (i) Về chủ quan, đó là không có chiến lược quản trị rủi ro, theo đó xác định hạn mức rủi ro theo ngành, khu vực, sản phẩm; không tuân thủ quy định về giới hạn cho vay hoặc không nhận diện được các trường hợp các khách hàng thuộc nhóm người có liên quan; bên cho vay lách quy định để cho vay không vượt thẩm quyền phán quyết của lãnh đạo bằng cách “xé” món tiền xin vay thành các dự án nhỏ…; (ii) Về khách quan, khách hàng tự “xé” món tiền xin vay thành các dự án nhỏ để có thể vượt qua giới hạn phê duyệt của người có thẩm quyền của bên cho vay (thông thường là có sự tư vấn của các tổ chức cho vay).

Thứ ba, rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất ở đây có thể hiểu là khả năng thiệt hại của một tổ chức có chức năng trung gian tài chính khi lãi suất thị trường biến động bất lợi. Đối với Quỹ HTPT HTX, rủi ro lãi suất phát sinh khi Quỹ huy động vốn bằng các hình thức vay vốn của các tổ chức, cá nhân, nhận tiền gửi theo lãi suất thị trường, sử dụng nguồn vốn đó cho vay với lãi suất ưu đãi cố định. Trong trường hợp huy động vốn ngắn hạn theo lãi suất thị trường và sử dụng vốn đó cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi cố định, nếu lãi suất thị trường tăng, thu nhập ròng từ lãi sẽ giảm. Trường hợp khác, huy động vốn theo lãi suất thị trường và sử dụng vốn đó cho vay với lãi suất thị trường, khi lãi suất thị trường biến động bất lợi, thu nhập ròng từ lãi cũng sẽ giảm.

Biến động bất lợi của lãi suất thị trường và việc sử dụng vốn dẫn đến mất cân bằng về kỳ hạn là nhân tố của rủi ro.

Thứ tư, rủi ro thanh khoản

Đối với các tổ chức tín dụng, rủi ro thanh khoản là việc không có đủ tiền mặt hoặc không chuyển đổi tài sản ra tiền mặt kịp thời với giá cả hợp lý để đáp ứng nhu cầu chi trả. Quỹ HTPT HTX cũng đối mặt với rủi ro này khi Quỹ không thu hồi kịp thời và đầy đủ các khoản nợ cho vay, bao gồm cho vay ủy thác bằng nguồn vốn huy động để hoàn trả cho các chủ nợ. Rủi ro thanh khoản cũng có thể xảy ra trong trường hợp Quỹ cho vay bằng nguồn vốn tự có nhưng không thu hồi đầy đủ, kịp thời để giải ngân cho khách hàng theo các hợp đồng tín dụng đã ký.

Rủi ro thanh khoản có nhiều nguyên nhân như: Quản trị tín dụng bao gồm cho vay khách hàng không đạt yêu cầu; quản trị rủi ro đối tác không được chú trọng; khách hàng vay vốn hoạt động không hiệu quả; các nhân tố bất khả kháng…

Thứ năm, rủi ro đối tác

Đối tác ở đây được hiểu là các pháp nhân mà Quỹ có giao dịch về hợp vốn để cho vay, ủy thác, tiền gửi, trừ khách hàng vay vốn của Quỹ. Theo nội dung hoạt động, Quỹ có thể ủy thác cho các Quỹ HTPT HTX địa phương, các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay; giao dịch gửi tiền với các Quỹ HTPT HTX địa phương, ngân hàng thương mại. Rủi ro đối tác là khả năng thiệt hại mà Quỹ phải gánh chịu khi các đối tác không thực hiện nghĩa vụ của mình. Ví dụ, Quỹ ủy thác vốn cho tổ chức tín dụng A để cho vay khách hàng, tổ chức tín dụng A

không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn ủy thác lại cho Quỹ theo thỏa thuận do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có trường hợp phá sản hoặc một Quỹ HTPT HTX địa phương nào đó không hoàn trả kịp thời, đầy đủ tiền gửi của Quỹ gửi tại đó.

Thứ sáu, rủi ro hoạt động

Rủi ro hoạt động là một trong những loại rủi ro có tính đặc thù vì nó bao trùm tất cả các hoạt động của một tổ chức. Đối với ngân hàng thương mại, rủi ro hoạt động được khái niệm là rủi ro do các quy trình nội bộ quy định không đầy đủ hoặc có sai sót (rủi ro quy chế), do yếu tố con người, do các lỗi (rủi ro con người), sự cố của hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) hoặc do các yếu tố bên ngoài làm tổn thất về tài chính, tác động tiêu cực phi tài chính đối với ngân hàng (rủi ro trong hoạt động thuê ngoài), rủi ro pháp lý. Xét trên phương diện tổ chức và hoạt động, các nhân tố rủi ro nói trên đều tiềm ẩn trong hoạt động của Quỹ.

Rủi ro con người: Là thiệt hại do cán bộ, nhân viên gây ra trong quá trình tác nghiệp như tự ý thực hiện các nhiệm vụ không được ủy quyền, vượt quá thẩm quyền cho phép; không tuân thủ quy định, quy trình nghiệp vụ và các văn bản pháp luật hiện hành, thực hiện các công việc trong phạm vi quyền hạn của mình tạo ra lợi ích không phù hợp hoặc trái với lợi ích chung của tổ chức, có hành vi cấu kết với khách hàng gây thiệt hại chung, lừa đảo và/hoặc hành động phạm tội, cấu kết với đối tượng bên ngoài gây thiệt hại cho tổ chức.

Nguyên nhân của rủi ro con người là do công tác nhân sự. Việc tuyển dụng, bố trí, đào tạo cán bộ, nhân viên không đạt yêu cầu; phân công công việc không đáp ứng nguyên tắc tách bạch nhiệm vụ, quyền hạn hoặc giao việc không hợp lý - tập trung công việc cho một người, nhóm người quá mức, kế hoạch hoàn thành công việc bất hợp lý, công việc chồng chéo…

Rủi ro quy chế: Bất cứ một tổ chức nào cũng phải có quy định nội bộ điều chỉnh hoạt động và làm cơ sở tác nghiệp. Quỹ HTPT HTX cũng phải đáp ứng yêu cầu này.

Các quy định nội bộ của Quỹ tập hợp thành “hệ thống kiểm soát nội bộ”, gồm các cơ chế, chính sách, quy trình…, được xây dựng phù hợp với mô hình và đặc điểm hoạt động của Quỹ HTPT HTX nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro. Quỹ HTPT HTX hoạt động trong môi trường không đơn giản, phải chịu sự tác động bởi nhân tố hỗ trợ theo chính sách của Nhà nước, phải có trách nhiệm đảm bảo thu nhập để trang trải hoạt động, bảo toàn vốn, đối tượng vay vốn là khách hàng thuộc diện còn yếu kém trên nhiều phương diện nhưng trải rộng trên địa bàn toàn quốc… Vì vậy, rủi ro do xây dựng các quy trình nội bộ, quy định không đầy đủ hoặc sai sót là có thể xảy ra.

Rủi ro về CNTT: Rủi ro CNTT hay còn gọi là rủi ro hệ thống, là khả năng xảy ra tổn thất khi thực hiện các hoạt động liên quan đến hệ thống CNTT như một công cụ hỗ trợ. Rủi ro CNTT liên quan đến quản lý, sử dụng phần cứng, phần mềm, truyền thông, giao diện hệ thống, vận hành và con người. CNTT tạo ra những cơ hội, cách thức mới để người quản lý kết nối với cơ quan quản lý cấp trên, nhân viên thừa hành, các bộ phận quản lý, đối tác, khách hàng. Song, công nghệ ngày càng phát triển cũng kéo theo việc gia tăng những nguy cơ, như các cá nhân, tổ chức bên ngoài truy cập trái phép để lấy hoặc thay đổi thông tin phục vụ cho mục đích cá nhân; không truy cập được dữ liệu hay làm gián đoạn các quy trình tác nghiệp; nguy cơ chậm trễ trong quá trình truy cập dữ liệu hay vận hành các quy trình; nguy cơ không thực hiện được hoặc thực hiện quá chậm các yêu cầu thay đổi của hoạt động…

Rủi ro trong hoạt động thuê ngoài: Có thể hiểu rằng, hoạt động thuê ngoài của Quỹ là việc thỏa thuận để các tổ chức bên ngoài thực hiện các công việc của Quỹ. Theo đó, rủi ro có thể phát sinh từ hoạt động của các tổ chức được thuê gây ra trong quá trình thực hiện hợp đồng, như gian lận, lừa đảo, trộm cắp tài sản, giả mạo chứng từ, thâm nhập hệ thống trái phép.

Nguyên nhân rủi ro thuê ngoài là do khi lựa chọn các tổ chức bên ngoài đã không có sự nghiên cứu kỹ nên lựa chọn các đối tác đúng yêu cầu; thiết lập hợp đồng thuê không chặt chẽ,…

Việc thuê các chuyên gia tư vấn dự án không được coi là hoạt động thuê ngoài, vì chuyên gia chỉ đưa ra ý kiến khuyến nghị, còn quyết định thuộc về bên thuê.

Rủi ro pháp lý: Có thể hiểu đây là rủi ro do thay đổi trong các quy định của pháp luật gây ảnh hưởng bất lợi lên hoạt động kinh doanh, một ngành hay một thị trường. Lĩnh vực hoạt động, các chủ thể kinh tế khác nhau chịu ảnh hưởng khác nhau từ những thay đổi pháp lý. Đối với Quỹ HTPT HTX, sự thay đổi pháp lý tác động tiêu cực đến hoạt động của Quỹ dưới các góc độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua tác động đến các chủ thể khác có quan hệ với Quỹ. Ví dụ, việc thay đổi chính sách về điện năng lượng mặt trời tác động lên khả năng khách hàng vay vốn của Quỹ do khó có thể thực hiện được nghĩa vụ trả nợ vay.

Trên đây là những rủi ro mà Quỹ HTPT HTX có thể gặp phải, tuy nhiên, rủi ro có phát sinh, mức độ rủi ro như thế nào phụ thuộc vào quy mô, quá trình phát triển hoạt động của Quỹ trong từng thời kỳ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong các rủi ro nói trên có hai loại có thể gọi là rủi ro cơ bản và rủi ro không cơ bản. Rủi ro cơ bản là rủi ro tín dụng, rủi ro tập trung và rủi ro hoạt động. Rủi ro không cơ bản gồm rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro đối tác. Mặc dù, rủi ro thuộc cung bậc nào thì việc quản trị rủi ro là cần thiết, phù hợp với tình hình hoạt động cụ thể của Quỹ.

3. Đề xuất khung quản trị rủi ro trong hoạt động của Quỹ HTPT HTX

Với kết quả hoạt động trong gần 15 năm qua, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới, quản trị rủi ro trong hoạt động của Quỹ HTPT HTX là công việc quan trọng để hoạt động an toàn, trở thành “người bạn đồng hành” của HTX, liên hiệp HTX và tổ hợp tác, các khách hàng liên quan trong quá trình phát triển, góp phần thực hiện thành công chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về kinh tế tập thể.

Về khung quản trị rủi ro

Khung quản trị rủi ro có thể hiểu là một quy trình có cấu trúc để xác định các nguy cơ tiềm tàng trong hoạt động của một tổ chức và xác định chiến lược loại bỏ hoặc giảm thiểu những rủi ro phát sinh từ những nguy cơ đó. Nếu hình thành được khung quản lý rủi ro hiệu quả và quản trị theo khung đó, sẽ góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động, duy trì và phát triển nguồn vốn của Quỹ HTPT HTX.

Khung quản trị rủi ro của Quỹ có thể gồm các thành tố: Tổ chức quản trị rủi ro; nhận diện rủi ro; chính sách quản trị rủi ro; lượng hóa rủi ro; giảm thiểu tổn thất; báo cáo rủi ro.

Về những việc cần thực hiện trong thời gian tới

Một là, chú trọng đến vai trò của bộ phận quản trị rủi ro

Quỹ cần có bộ phận quản trị rủi ro, tổ chức theo mô hình phòng, bộ phận hay chuyên viên. Hoạt động của bộ phận quản trị rủi ro phải theo cơ chế độc lập và có nhiệm vụ:

(i) Giúp Tổng Giám đốc trong việc nhận diện các rủi ro mà Quỹ sẽ đối mặt trong quá trình phát triển hoạt động; xây dựng chiến lược và chính sách quản trị rủi ro; xây dựng các mô hình, phương pháp lượng hóa từng rủi ro; xây dựng mô hình cảnh báo sớm, phân tích nguy cơ rủi ro để có biện pháp xử lý và phòng ngừa; đánh giá tổn thất và áp dụng các biện pháp hạn chế tổn thất do rủi ro; lập kế hoạch kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất các đơn vị vay vốn nhằm đánh giá khả năng vi phạm các cam kết, khả năng rủi ro, báo cáo Giám đốc kết quả kiểm tra và đề xuất biện pháp xử lý; đánh giá khả năng bù đắp và tham mưu Tổng Giám đốc xử lý rủi ro…; (ii) Phối hợp với các phòng, bộ phận chuyên môn trong việc nhận diện, triển khai thực hiện chính sách quản trị rủi ro, lượng hóa và quản lý rủi ro.

Hai là, xây dựng chiến lược, chính sách quản lý rủi ro cơ bản

Đối với rủi ro tín dụng: Xác định tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu mục tiêu, nguyên tắc và phương pháp tính lãi có phân biệt đối xử theo chất lượng tín dụng; nguyên tắc bù đắp rủi ro; hệ thống các hạn mức cho vay, bao gồm cả cho vay ủy thác; tỷ lệ ủy thác; nguyên tắc xác định đối tác để ủy thác; xử lý rủi ro trong hoạt động ủy thác…

Đối với rủi ro hoạt động: Xác định nguyên tắc thực hiện quản lý rủi ro; nguyên tắc sử dụng hoạt động thuê ngoài, mua bảo hiểm, ứng dụng công nghệ; kế hoạch duy trì hoạt động liên tục tối thiểu trong các trường hợp mất tài liệu, thông tin, sự cố mạng…; mô hình nhận dạng, đo lường, quản lý các rủi ro thuê ngoài, quản lý rủi ro trong ứng dụng CNTT…; chính sách bù đắp rủi ro; duy trì hoạt động liên tục…

Đối với rủi ro tập trung: Nguyên tắc xác định hạn mức tập trung dư nợ cho vay; nguyên tắc xác định hạn mức ủy thác; giao dịch tiền gửi, nguyên tắc xác định đối tác nhận tiền gửi, hạn mức tiền gửi tại từng tổ chức nhận tiền gửi…

Ba là, phân tích và đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của Quỹ

Thu thập thông tin của khách hàng vay vốn trong các năm qua, tiến hành phân tích, đánh giá hiệu quả tín dụng của Quỹ đối với khách hàng theo các tiêu chí liên quan đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh, quy mô phát triển của khách hàng vay vốn; đánh giá chất lượng cho vay thông qua các tiêu chí thực hiện các thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ…; đánh giá tính hiệu quả của chính sách, quy trình của Quỹ về cho vay. Trên cơ sở đó, xây dựng quy định, quy trình cho vay phù hợp với yêu cầu về quản trị rủi ro, bao gồm chiến lược chính sách, mô hình, phương thức đo lường rủi ro.

Sớm ban hành quy chế về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Quy chế phân loại nợ và kết quả phân loại nợ chính xác sẽ là một trong các cơ sở để đánh giá chất lượng cho vay của Quỹ.

Tóm lại, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu, điều kiện mới về hoạt động của Quỹ HTPT HTX, bài nghiên cứu đã phân tích, xác định những rủi ro tiềm ẩn, đồng thời đề xuất khung quản trị rủi ro và một số việc cần thực hiện trong thời gian tới đối với hoạt động của Quỹ HTPT HTX.


1 Theo https://dangcongsan.vn

2 Theo tài liệu giới thiệu về Quỹ HTPT HTX.


Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.

2. Chính phủ, Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 về việc thành lập Quỹ HTPT HTX.

3. Chính phủ, Quyết định số 23/2017/QĐ-TTg ngày 22/6/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 246/2006/ QĐ-TTg ngày 27/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ HTPT HTX và ban hành Quy chế hoạt động bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ HTPT HTX.

4. Chính phủ, Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp.

5. Chính phủ, Nghị định số 45/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 về thành lập, tổ chức và hoạt động Quỹ HTPT HTX.

6. Quốc hội, Luật (2014) Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

7. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

8. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 31/2015/TT-NHNN ngày 28/12/2015 quy định về đảm bảo an toàn, bảo mật hệ thống CNTT trong hoạt động ngân hàng.

9. https://hcma3.hcma.vn

10. https://dangcongsan.vn


PGS., TS. Phan Văn Tính (Phó Chủ nhiệm Khoa Ngân hàng, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội)

TS. Trịnh Thu Thủy (Chuyên viên Quỹ HTPT HTX Việt Nam)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Chính sách tiền tệ đòi hỏi sự linh hoạt và sự kết hợp của nhiều biện pháp khác nhau, tương tự như nghệ thuật chiến tranh được mô tả trong chuyên luận nổi tiếng của Tôn Tử. Các ngân hàng trung ương (NHTW) có thể học được điều gì đó từ một chiến lược gia người Trung Quốc sống cách đây hơn 2.500 năm. Bài viết giới thiệu sáu nguyên tắc chiến lược được vận dụng tư tưởng của Tôn Tử dành cho các NHTW, được đề xuất bởi Giáo sư Kristin Forbes - Trường Quản lý Sloan thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), nhằm qua đó, giúp họ quản lý hiệu quả các khủng hoảng và duy trì sự ổn định kinh tế.
Xem thêm
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc