Hoạt động thương mại điện tử trong bối cảnh hậu Covid-19 tại Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Thương mại điện tử đang trở thành cơ hội mới cho nhiều doanh nghiệp sau đại dịch Covid-19. Nếu như trước đây, thương mại điện tử vẫn còn khá xa lạ với người dân thì hiện nay hoạt động này đã trở nên phổ biến.
aa

Tóm tắt: Thương mại điện tử đang trở thành cơ hội mới cho nhiều doanh nghiệp sau đại dịch Covid-19. Nếu như trước đây, thương mại điện tử vẫn còn khá xa lạ với người dân thì hiện nay hoạt động này đã trở nên phổ biến. Chính bối cảnh dịch bệnh đã khiến cho hành vi tiêu dùng và hoạt động thương mại điện tử thay đổi một cách nhanh chóng. Điều này đã góp phần thúc đẩy lĩnh vực thương mại điện tử và kinh tế số phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực thì hoạt động thương mại điện tử cũng đối mặt với không ít những thách thức đặt ra cần phải tháo gỡ. Bài viết tập trung phân tích, đánh giá những tác động chung của dịch bệnh Covid-19 đến hoạt động thương mại điện tử; từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động này trong bối cảnh hiện nay.

Từ khóa: Thương mại điện tử, Covid-19, Việt Nam.

E-COMMERCE ACTIVITIES IN THE CONTEXT OF POST COVID-19 PANDEMIC IN VIETNAM


Abstract: E-commerce is becoming a new opportunity for many businesses after the Covid-19 pandemic. If in the past, e-commerce was still quite strange to the people, now these activities have become popular. It is the context of the epidemic that has caused consumer behavior and e-commerce activities to change rapidly and this has contributed to the promotion of the e-commerce sector and the digital economy to develop strongly. However, in addition to the positive impacts, e-commerce also faces many challenges that need to be removed in the context of the Covid-19 pandemic. From there, the article focuses on analyzing and assessing the overall impacts of the Covid-19 pandemic on e-commerce activities and thereby offering a number of solutions to contribute to improving the efficiency of these activities in the current context.

Keywords: E-commerce, Covid-19, Vietnam.

1. Tác động của dịch bệnh Covid-19 đến hoạt động thương mại điện tử trong bối cảnh hiện nay

Dịch bệnh Covid-19 bùng phát kéo dài đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong hoạt động thương mại điện tử, dịch bệnh Covid-19 đã có những tác động nhất định thông qua các phương diện sau:

Thứ nhất, dịch bệnh Covid-19 tác động đến thói quen của người tiêu dùng. Nếu như trước đây, thời điểm chưa bùng phát đại dịch, người tiêu dùng có thói quen mua sắm trực tiếp thì nay người tiêu dùng chuyển sang lựa chọn hình thức mua sắm trực tuyến. Lý giải cho sự thay đổi này xuất phát từ tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp và người dân phải thực hiện phong tỏa, giãn cách để phòng ngừa dịch bệnh, không thể tự mình trực tiếp đi mua sắm các nhu yếu phẩm, hàng hóa cá nhân. Do vậy, người tiêu dùng đã chuyển hướng sang mua sắm trực tuyến, chỉ cần tải ứng dụng, tạo một tài khoản và bắt đầu thực hiện tiêu dùng. Theo khảo sát gần đây nhất, trong quý I/2022, Việt Nam có hơn 8 triệu người tiêu dùng trực tuyến mới, với hơn 55% trong số đó đến từ các khu vực phi thành thị, tỷ lệ người tiêu dùng thương mại điện tử có xu hướng tăng cao, với 97% người tiêu dùng vẫn đang sử dụng dịch vụ và 99% có ý định tiếp tục sử dụng trong tương lai1. Từ đó, có thể thấy rằng, tỷ lệ người tiêu dùng lựa chọn mua sắm trực tuyến đã có những chuyển biến tích cực, tạo động lực thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử trong thời gian tới.


Thứ hai, dịch bệnh Covid-19 tác động tới các doanh nghiệp2. Cụ thể, các doanh nghiệp tăng cường làm việc online tại nhà để đảm bảo an toàn cho cộng đồng và bản thân nhân viên, đồng thời, đảm bảo hoạt động kinh doanh được thực hiện hiệu quả. Điều này đã dẫn đến nhiều giải pháp điều hành doanh nghiệp từ xa được áp dụng. Theo khảo sát, có tới 67% doanh nghiệp yêu cầu hơn một nửa nhân viên của mình làm việc trực tuyến trong giai đoạn cao điểm của dịch bệnh Covid-19, 18% doanh nghiệp yêu cầu từ 21% - 50% nhân viên làm việc trực tuyến. Từ số liệu này có thể thấy rằng, đa số các doanh nghiệp hoạt động đều ưu tiên lựa chọn hình thức làm việc trực tuyến trong giai đoạn bùng phát dịch. Chính vì điều này mà nhiều ứng dụng công nghệ đã được lựa chọn để phục vụ cho công việc, cụ thể, có tới 87% doanh nghiệp lựa chọn Facebook, Google, Zalo, Skype, Viber, WhatsApp, Email để làm công cụ tương tác nội bộ; trong khi đó, số ít các doanh nghiệp (21%) lại lựa chọn cách thức là thuê hệ thống hỗ trợ làm việc online chuyên nghiệp thay vì các ứng dụng kể trên. Từ số liệu trên, có thể thấy rằng, phần lớn các doanh nghiệp hoạt động lựa chọn giải pháp ban đầu với mục đích nhằm cắt giảm chi phí, đặc biệt là trong điều kiện khó khăn tài chính như hiện nay.

Thứ ba, tăng trưởng khả quan. Theo Báo cáo thương mại điện tử Đông Nam Á năm 2020 của Google, Temasek và Bain & Company, thương mại điện tử Việt Nam năm 2020 tăng 16% và đạt quy mô trên 14 tỷ USD. Trong đó, lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trực tuyến tăng 46%, gọi xe và đồ ăn công nghệ tăng 34% tiếp thị, giải trí và trò chơi trực tuyến tăng 18%, riêng lĩnh vực du lịch trực tuyến giảm 28%. Báo cáo này cũng dự đoán tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2020 - 2025 là 29% và tới năm 2025 quy mô thương mại điện tử nước ta đạt 52 tỷ USD3. Về doanh thu4, 10% doanh nghiệp cho biết, doanh thu năm 2020 tăng bất chấp dịch bệnh, trong khi đó, 50% doanh nghiệp bị giảm và 40% có doanh thu hầu như không thay đổi. Xu hướng các doanh nghiệp bán sản phẩm trên các sàn thương mại điện tử ngày càng tăng, đặc biệt là sau dịch bệnh Covid-19. Nhiều doanh nghiệp thương mại điện tử đã tận dụng cơ hội trong dịch bệnh để tăng doanh thu, đặc biệt là các lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trực tuyến, dịch vụ gọi xe và đồ ăn công nghệ, đây là những lĩnh vực mà nhu cầu của người tiêu dùng tăng cao trong bối cảnh giãn cách khi không thể đi lại và mua sắm trực tiếp.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động thương mại điện tử ở nước ta vẫn phải đối diện với nhiều thách thức. Cụ thể:

Một là, những lo ngại của người tiêu dùng khi mua sắm trực tuyến. Theo khảo sát gần đây5 thì nhiều trở ngại đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự hài lòng của người tiêu dùng khi mua hàng trực tuyến, cụ thể, lo ngại liên quan về giá cả hàng hóa (44%), chất lượng hàng hóa kém hơn so với quảng cáo (42%); thông tin cá nhân bị tiết lộ (33%); vận chuyển và giao nhận không đảm bảo (25%); dịch vụ chăm sóc khách hàng kém (22%); 19% liên quan đến việc thanh toán phức tạp (19%); website/ứng dụng không chuyên nghiệp (14%); việc đặt hàng trực tuyến rắc rối (13%). Chính vì vậy, mức độ hài lòng của người tiêu dùng khi thực hiện khảo sát này đã giảm từ 55% (năm 2019) còn 40% (năm 2020). Tuy tỷ lệ mua sắm trực tuyến ngày càng tăng trong và sau dịch bệnh nhưng chất lượng, sự tin tưởng và mức độ hài lòng của người tiêu dùng đối với hoạt động thương mại điện tử lại giảm đi. Điều này đặt ra thách thức cho những doanh nghiệp thương mại điện tử phải nhanh chóng thay đổi và khắc phục những hạn chế để phù hợp với bối cảnh hiện nay khi mà thương mại điện tử ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.


Hai là, các doanh nghiệp thương mại điện tử phải đối diện với những rắc rối mới khi làm việc trực tuyến tại nhà. Cụ thể, phương pháp làm việc trực tuyến này tương đối mới và ít có thời gian thử nghiệm nên đa số các doanh nghiệp nhận thấy, hiệu quả công việc không thay đổi hoặc giảm so với phương pháp làm việc tại văn phòng. Theo khảo sát, có 13% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết phương pháp làm việc trực tuyến đem lại hiệu quả cao hơn; trong khi đó, có tới 44% doanh nghiệp cho biết hiệu quả làm việc hầu như không thay đổi, 44% doanh nghiệp cho biết hiệu quả làm việc giảm6. Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ thực tế các doanh nghiệp thương mại điện tử không có thời gian để tiếp cận và thay đổi phương thức hoạt động, hoặc có thay đổi nhưng chất lượng chưa ổn định vì dịch bệnh bùng phát nhanh chóng và kéo dài. Ngoài ra, tỷ lệ doanh nghiệp có lao động chuyên trách về thương mại điện tử trong năm 2020 lại giảm nhiều so với các năm trước, một phần cũng do tác động lớn của dịch bệnh và áp lực về tài chính nên việc cắt giảm biên chế và kiêm nhiệm nhiều vai trò được các công ty vận dụng triển khai để duy trì hoạt động trong giai đoạn khó khăn7. Chính vì điều đó đã khiến cho việc đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực gặp nhiều hạn chế và ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động thương mại điện tử đến người tiêu dùng.

Ba là, chỉ số thương mại điện tử giữa các địa phương có sự chênh lệch. Theo khảo sát, hiện nay hoạt động thương mại điện tử chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, còn đối với các địa phương thuộc khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nam Bộ thì có mức độ phát triển thương mại điện tử thấp nhất8. Có thể thấy rằng, các địa phương chưa khai thác được những cơ hội do thương mại điện tử mang lại, đồng thời các doanh nghiệp thương mại điện tử chậm mở rộng quy mô kinh doanh và tăng trưởng bền vững. Có nghĩa là, thương mại điện tử chỉ mới phát triển tập trung ở hai thành phố lớn, chưa có sự mở rộng sang các địa phương hoặc có mở rộng nhưng mức độ không mấy nổi bật.


2. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử trong bối cảnh hậu Covid-19 tại Việt Nam

Để thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh hậu Covid-19, cần phải xem xét thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, giải quyết những lo ngại của người tiêu dùng khi thực hiện mua sắm thông qua thương mại điện tử. Cụ thể:

(i) Giá cả và chất lượng hàng hóa. Để cải thiện nỗi lo ngại này thì cần phải tăng cường trách nhiệm của người bán. Cụ thể, theo Nghị định số 85/2021/NĐ-CP ngày 25/9/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử thì đối với hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu trên Website, người bán phải cung cấp những thông tin để khách hàng có thể xác định chính xác các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ nhằm tránh sự hiểu lầm khi quyết định việc đề nghị giao kết hợp đồng. Có nghĩa là, người bán cần cung cấp thông tin trung thực, chính xác về hàng hóa, dịch vụ, từ đó, khách hàng có được những thông tin cần thiết và đi đến quyết định chọn hay không chọn hàng hóa, dịch vụ đó. Người bán không được cung cấp những thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng để họ hiểu sai về đặc tính, công dụng của hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, thông tin về hàng hóa công bố trên Website phải bao gồm các nội dung bắt buộc thể hiện nhãn hàng theo quy định pháp luật về nhãn hàng hóa, trừ các thông tin có tính chất riêng biệt. Ngoài ra, người tiêu dùng cần cẩn trọng tìm hiểu trước khi mua hàng hóa, dịch vụ. Thực tế không thể tránh khỏi những trường hợp vì quá tin vào lời quảng cáo mà người mua phải “đắng lòng” khi mua phải hàng hóa kém chất lượng, không đúng với mục đích, nhu cầu sử dụng. Vì vậy, bên cạnh trách nhiệm của bên bán thì người tiêu dùng cũng phải có trách nhiệm trong việc nhìn nhận chất lượng hàng hóa, dịch vụ thông qua thông tin các bài quảng cáo.

(ii) Bảo mật thông tin khách hàng. Hiện nay, an ninh mạng và bảo mật thông tin cá nhân trong các giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam được xem là vấn đề nan giải cho các nhà quản lý doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước9. Vì vậy, để việc bảo vệ thông tin cá nhân trong thương mại điện tử được thực hiện hiệu quả thì khuôn khổ pháp lý phải được quy định rõ ràng và hoàn thiện. Tuy nhiên, điều này lại không hề dễ dàng bởi thực tế mặc dù đã có quy định về Luật An ninh mạng năm 2018, nhưng trong văn bản quy phạm pháp luật này lại không đề cập nhiều quy định liên quan về bảo vệ quyền riêng tư cá nhân đối với đối tượng cụ thể là người tiêu dùng khi tham gia vào thương mại điện tử. Vì vậy, trong thời gian đợi pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này thì trách nhiệm bảo mật thông tin khách hàng thuộc về cả người tiêu dùng và doanh nghiệp thương mại điện tử. Đối với người tiêu dùng, khi mua hàng thông qua thương mại điện tử cần phải nâng cao ý thức bảo vệ thông tin cá nhân của mình, chỉ cung cấp những thông tin thật sự cần thiết trong việc giao dịch, mua bán hàng hóa trên thương mại điện tử, đặc biệt, cần lựa chọn sàn thương mại điện tử uy tín, minh bạch trong việc bảo mật thông tin của khách hàng. Đối với doanh nghiệp thương mại điện tử, cần xây dựng hệ thống bảo mật thông tin khách hàng an toàn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần hạn chế việc yêu cầu khách hàng phải cung cấp những không tin không thật sự cần thiết khi họ mua sắm hàng hóa, dịch vụ trên các sàn thương mại điện tử.

(iii) Cải thiện vận chuyển và giao nhận hàng hóa. Trong thời gian dịch bệnh căng thẳng, thực hiện giãn cách xã hội và hạn chế đi lại dẫn đến việc vận chuyển hàng hóa trở nên khó khăn và mất thời gian. Sau thời gian thực hiện giãn cách, để việc thực hiện giao nhận hàng hóa có hiệu quả thì doanh nghiệp chuyển phát, giao nhận cần đẩy nhanh tiến độ, phân luồng hàng hóa để kịp thời giao cho khách hàng, đặc biệt là ưu tiên đối với những hàng hóa, dịch vụ đã được giao dịch sớm.

(iv) Khuyến khích người tiêu dùng thanh toán bằng hình thức trực tuyến. Thực tế hiện nay, đa phần khách hàng sẽ ưu tiên lựa chọn thanh toán tiền mặt khi nhận hàng. Cụ thể, theo một khảo sát, tỷ lệ người mua hàng trực tuyến thanh toán tiền mặt mặc dù đã giảm từ 91% vào tháng 4/2020 xuống còn 84% vào tháng 10/202110 nhưng nhìn một cách tổng thể thì tỷ lệ này vẫn chiếm đa số trong các hình thức được ưu tiên lựa chọn. Có thể thấy rằng, thói quen thanh toán bằng tiền mặt của người tiêu dùng vẫn còn hiện hữu mặc dù tỷ lệ thanh toán bằng các hình thức điện tử, thẻ tín dụng đã có sự tăng mạnh trong bối cảnh hậu Covid-19. Xu hướng hiện nay là sử dụng điện thoại thông minh ngày càng phổ biến nên việc thay đổi hình thức thanh toán là điều tất yếu, quan trọng là việc áp dụng sớm hay muộn. Vì vậy, để thúc đẩy việc thay đổi này thì người bán hàng cần khuyến khích người mua thanh toán điện tử bằng việc khuyến mại, miễn phí vận chuyển khi người tiêu dùng mua hàng hóa, dịch vụ.


Thứ hai, nâng cao hiệu quả làm việc của doanh nghiệp thương mại điện tử. Vì tính chất làm việc tại nhà nên trong thời gian dịch bệnh, hàng loạt các doanh nghiệp nhỏ lẻ tự phát, chưa có sự bài bản trong khâu tổ chức, quản lý nhân sự. Chính điều này đã khiến cho khả năng hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều hạn chế. Để khắc phục thì doanh nghiệp thương mại điện tử cần chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn về thương mại điện tử. Trong bối cảnh hậu Covid-19, nhiều doanh nghiệp thiếu nguồn lao động để làm việc, đây là một thách thức mới mà các doanh nghiệp cần tháo gỡ. Trước mắt, các doanh nghiệp cần duy trì ổn định chất lượng và số lượng người lao động hiện tại, đồng thời tuyển dụng thêm nguồn lao động mới, đặc biệt là người lao động chuyên về công nghệ thông tin, bảo mật thông tin cá nhân của người tiêu dùng.

Thứ ba, cải thiện chỉ số thương mại điện tử giữa các địa phương. Như đã đề cập, hiện nay, chỉ số thương mại điện tử giữa các địa phương có sự chênh lệch lớn. Điều này cho thấy rằng, nhiều địa phương vẫn chưa khai thác được những cơ hội do thương mại điện tử mang lại trong khi thương mại điện tử ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Vì vậy, để cải thiện chỉ số thương mại điện tử giữa các địa phương thì cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp thương mại điện tử cần phối hợp với nhau để đưa ra các chính sách đúng đắn và phù hợp.

Kết luận

Thương mại điện tử ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế số hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh hậu Covid-19. Do đó, các doanh nghiệp thương mại điện tử cần tích cực thay đổi để khắc phục những hạn chế, vượt qua thách thức nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, về phía các cơ quan quản lý nhà nước, cần có các chính sách phù hợp nhằm tạo động lực phát triển cho các doanh nghiệp thương mại điện tử.

Tài liệu tham khảo:


1. Tú Ân (2022), “Nương tựa” thương mại điện tử, Đầu tư thị trường chứng khoán, truy cập ngày 29/06/2022, <https://www.tinnhanhchungkhoan. vn/nuong-tua-thuong-mai-dien-tu-post298008.html#:~:text=Trong%20qu% C3%BD%20I%2F2022%2C%20Vi%E1%BB%87t,s%E1%BB%AD%20d%E1%BB%A5ng%20trong%20t%C6%B0%C6%A1ng%20lai>.
2. Bộ Công Thương, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, (2021), Thương mại điện tử Việt Nam năm 2021.
3. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (Vecom), (2021), Việt Nam thương mại điện tử tăng tốc sau đại dịch Covid-19.
4. Hiệp hội Thương mại điện tử (2021), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử 2021 tăng trưởng vững chắc.
5. Dương Ngọc Hồng (2020), “Thương mại điện tử trong phát triển kinh tế tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính Online, truy cập ngày 02/05/2022, .
6. Phúc Minh (2021), Thanh toán không dùng tiền mặc vì sao vẫn khó, VnEconomy, truy cập ngày 29/06/2022, < https://vneconomy.vn/thanh-toan-khong-dung-tien-mat-vi-sao-van-kho.htm>


1Tú Ân (2022), “Nương tựa” thương mại điện tử, Đầu tư thị trường chứng khoán, truy cập ngày 29/06/2022, <https://www.tinnhanhchungkhoan.vn/nuong-tua-thuong-mai-dien-tu-post298008.html#:~:text=Trong%20qu%C3%BD%20I%2F2022%2C%20Vi%E1%BB%87t,s%E1%BB%AD%20d%E1%BB%A5ng%20trong%20t%C6%B0%C6%A1ng%20lai>.

2 Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (Vecom) (2021), Việt Nam thương mại điện tử tăng tốc sau dịch bệnh Covid-19, tr.3.

3Hiệp hội Thương mại điện tử (2021), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử 2021 tăng trường vững chắc, tr.10.

4Hiệp hội Thương mại điện tử (2021), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử 2021 tăng trường vững chắc, tr.11.

5Bộ Công Thương, Cục Thương mại điện tử và kinh tế số (2021), Thương mại điện tử Việt Nam năm 2021, tr.39.

6Hiệp hội Thương mại điện tử (2021), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử 2021 tăng trường vững chắc, tr.4.

7 Hiệp hội Thương mại điện tử (2021), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử 2021 tăng trường vững chắc, tr.25.

8 Hiệp hội Thương mại điện tử (2021), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử 2021 tăng trường vững chắc, tr.15 – 16.

9 Dương Ngọc Hồng (2020), “Thương mại điện tử trong phát triển kinh tế tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính Online, truy cập ngày 02/05/2022, .

10 Phúc Minh (2021), Thanh toán không dùng tiền mặc vì sao vẫn khó, VnEconomy, truy cập ngày 29/06/2022, < https://vneconomy.vn/thanh-toan-khong-dung-tien-mat-vi-sao-van-kho.htm>


ThS. Trần Linh Huân - ThS. Huỳnh Minh Phương
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của đất nước, Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) xác định siết chặt kỷ cương là yếu tố then chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với thách thức kinh tế hiện nay.
Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Thực thi ESG và báo cáo phát triển bền vững trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ để thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050 và đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững, ESG đã và đang trở thành một yêu cầu tất yếu đối với hệ thống tài chính nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng...
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân là kim chỉ nam giúp chúng ta xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không chỉ hội nhập thành công với thế giới mà còn giữ vững được bản sắc dân tộc, bảo đảm sự ổn định và phát triển lâu dài cho đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và hàm ý chính sách

Những năm gần đây, nhiều tập đoàn đã bắt đầu chú trọng vào các vấn đề đảm bảo tính bền vững trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chuỗi cung ứng và các quyết định đầu tư của mình. Tại các buổi thảo luận của Liên hợp quốc, các quốc gia trong nhóm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và G20 đã thể hiện sự đồng thuận mang tính quốc tế cao rằng, để tăng cường tính ổn định tài chính và phát triển kinh tế dài hạn, cần nhanh chóng cải thiện các hoạt động về quản trị trách nhiệm với môi trường và xã hội (Environmental and Social Governance - E&S) tại các doanh nghiệp. Một trong những hoạt động mà Liên hợp quốc hướng tới là khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện Báo cáo phát triển bền vững.
Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô