
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố
Ngày 06/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Theo Điều 4, tổ chức bộ máy Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một hệ thống bao gồm Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Liên khu, ngân hàng tỉnh hay thành phố. Ngân hàng tỉnh hay thành phố chính là tiền thân của hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) chi nhánh tỉnh, thành phố hiện nay.
Trải qua hơn 70 năm xây dựng và phát triển, hệ thống chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố đã qua nhiều lần thay đổi cơ cấu tổ chức, bổ sung chức năng, nhiệm vụ để ngày càng thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thực hiện định hướng của Đảng, Chính phủ về sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, căn cứ Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN, Thống đốc NHNN đã ban hành các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh theo cơ cấu mới (so với trước đây, cắt giảm 63 phòng tại 63 chi nhánh - mỗi chi nhánh cắt giảm 01 phòng). Theo đó, cơ cấu phòng đối với từng nhóm Chi nhánh hiện nay như sau:
Chi nhánh Thành phố Hà Nội (07 phòng): Thực hiện chức năng thanh tra, giám sát (theo mô hình Chi cục thuộc Sở) có 03 phòng là: Phòng Thanh tra; Phòng Quản lý, giám sát tổ chức tín dụng (TCTD); Phòng Quản lý, giám sát Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) và 04 phòng chức năng khác: Phòng Tổng hợp, Nhân sự và Kiểm soát nội bộ; Phòng Kế toán - Thanh toán; Phòng Tiền tệ - Kho quỹ và Hành chính; Phòng Quản lý ngoại hối - vàng.
Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh (08 phòng) bao gồm: Thực hiện chức năng thanh tra, giám sát (theo mô hình Chi cục thuộc Sở) có 03 phòng: Phòng Thanh tra; Phòng Quản lý, giám sát chi nhánh TCTD Nhà nước; Phòng Quản lý, giám sát chi nhánh TCTD ngoài Nhà nước và 05 phòng chức năng khác: Phòng Tổng hợp và Kiểm soát nội bộ; Phòng Kế toán - Thanh toán; Phòng Tiền tệ - Kho quỹ; Phòng Hành chính - Nhân sự; Phòng Quản lý ngoại hối - vàng.
Chi nhánh Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Nghệ An, Đắk Lắk (05 phòng): Thanh tra, giám sát; Phòng Tổng hợp và Kiểm soát nội bộ; Phòng Kế toán - Thanh toán; Phòng Tiền tệ - Kho quỹ; Phòng Hành chính - Nhân sự.
56 chi nhánh còn lại (04 phòng): Thanh tra, giám sát; Phòng Tổng hợp, Nhân sự và Kiểm soát nội bộ; Phòng Kế toán - Thanh toán; Phòng Tiền tệ - Kho quỹ và Hành chính.
I. Chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chi nhánh
Căn cứ các quyết định của Thống đốc NHNN quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các chi nhánh
như sau:
1. Thanh tra, giám sát
Các chi nhánh thực hiện nghiệp vụ liên quan đến công tác quản lý các TCTD; thanh tra, giám sát trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; xử lý kiến nghị, xử phạt bổ sung và xử phạt hành chính; xử lý đơn thư khiếu nại, tiếp công dân, kiến nghị, phản ánh theo quy định; công tác phòng, chống rửa tiền; phòng, chống tài trợ khủng bố theo quy định; công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng theo quy định; công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi.
2. Kế toán - thanh toán
Các chi nhánh thực hiện nghiệp vụ liên quan đến cung ứng dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng trung ương; quản lý tài chính, tài sản của NHNN; quản lý đầu tư xây dựng, sửa chữa; công tác tin học; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; nghiệp vụ kế toán và chế độ thông tin báo cáo.
3. Tiền tệ - kho quỹ
Các chi nhánh thực hiện nghiệp vụ cung ứng tiền mặt cho các TCTD, kho bạc nhà nước trên địa bàn theo quy định; quản lý, bảo quản an toàn quỹ dự trữ phát hành, quỹ nghiệp vụ phát hành, tài sản quý, giấy tờ có giá tại chi nhánh; thực hiện nghiệp vụ xuất, nhập quỹ dự trữ phát hành; thu, chi quỹ nghiệp vụ của chi nhánh và giao nhận tiền mặt với các TCTD và khách hàng theo quy định; kiểm tra việc chấp hành chế độ an toàn kho quỹ; quản lý tiền mặt tại các TCTD và tổ chức khác có hoạt động ngân hàng; phòng chống tiền giả.
4. Tổng hợp và kiểm soát nội bộ
Các chi nhánh phổ biến, tuyên truyền và triển khai các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, văn bản chỉ đạo, điều hành của Thống đốc NHNN về tiền tệ, ngân hàng và ngoại hối đến các TCTD, các tổ chức khác và người dân trên địa bàn; thu thập, xử lý thông tin liên quan đến tình hình kinh tế, tiền tệ trên địa bàn trong điều hành, thực hiện chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; tham mưu cho cấp ủy địa phương về hoạt động ngân hàng, tiền tệ, ngoại hối, thông tin tín dụng; xây dựng báo cáo, trả lời chất vấn theo yêu cầu của cấp ủy, chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội; quản lý nhà nước về vàng và ngoại hối; nghiệp vụ tái cấp vốn và cho vay thanh toán đối với các TCTD trên địa bàn khi được Thống đốc NHNN ủy quyền; công tác thi đua - khen thưởng; kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ của NHNN.
5. Công tác hành chính quản trị
Các chi nhánh thực hiện công tác hành chính tại chi nhánh (văn thư, lưu trữ, công tác an ninh, mua sắm tài sản cố định; xây dựng cơ bản, sử dụng tài sản); xây dựng quy chế, chương trình, kế hoạch công tác, quy chế dân chủ, cải cách hành chính, văn hóa công sở; quốc phòng an ninh; phòng cháy, chữa cháy; phòng, chống thiên tai...
II. Đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố
Trên cơ sở thu thập, xử lý 234 chỉ tiêu chi tiết của 18 nhóm nhiệm vụ trong 3 năm 2018, 2019 và 2020 thu thập từ các báo cáo của 63 chi nhánh, từ các cuộc làm việc, thảo luận trực tiếp với 28/63 giám đốc chi nhánh, cũng như tiếp thu các ý kiến đóng góp từ các vụ, cục có liên quan của Ngân hàng Nhà nước Trung ương (NHTW); thống kê, phân tích đánh giá quy mô, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, đối tượng quản lý, nhóm nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố trên cơ sở số biên chế bố trí cho từng nghiệp vụ trong 05 mảng nghiệp vụ chính cụ thể như sau:
1. Nghiệp vụ thanh tra, giám sát
Qua số liệu thống kê cho thấy, các chi nhánh đánh giá thanh tra, giám sát là mảng nghiệp vụ trọng tâm quan trọng; vì vậy, đã bố trí tập trung nhiều nguồn lực cho mảng nghiệp vụ này. Toàn hệ thống chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố bố trí 32,44% số lượng người làm việc ở mảng thanh tra, giám sát; trong đó, tỉ lệ cao nhất thuộc về các chi nhánh trong nhóm 1 (Chi nhánh Thành phố Hà Nội và Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh) với 46,6% tổng số biên chế thực hiện, trong khi đó, các chi nhánh thuộc nhóm 5 chỉ dành 25,1% biên chế cho mảng công việc thanh tra, giám sát.
Qua xem xét, đánh giá cho thấy, tương ứng với số lượng TCTD, quy mô TCTD và quy mô nguồn vốn huy động, dư nợ trên địa bàn sẽ phát sinh số lượng nghiệp vụ cũng như mức độ khó, phức tạp của các nghiệp vụ quản lý, thanh tra, giám sát… tại chi nhánh. Theo đó, các chi nhánh dành số lượng biên chế tương ứng, hợp lý cho mảng nghiệp vụ thanh tra, giám sát. Các chi nhánh có quy mô nhỏ chỉ bố trí hơn 25% công chức thuộc chi nhánh cho mảng nghiệp vụ này, trong khi đó, những chi nhánh lớn, quy mô, số lượng đầu mối TCTD lớn có thể bố trí tới gần 47% biên chế chi nhánh cho mảng thanh tra. Nhóm các chi nhánh có quy mô trung bình bố trí biên chế thực hiện mảng công việc thanh tra, giám sát chiếm khoảng 33,3% biên chế chi nhánh. Đánh giá chung, việc bố trí nhân lực cho mảng thanh tra, giám sát hiện nay của các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố là phù hợp, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tại các chi nhánh.
2. Nghiệp vụ kế toán - thanh toán
Qua số liệu thống kê cho thấy, bình quân, các chi nhánh bố trí 11,16% nhân lực tại chi nhánh cho công tác kế toán - thanh toán. Ngoại trừ Chi nhánh Thành phố Hà Nội và Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh bố trí nhân lực lớn cho mảng kế toán - thanh toán là 15 và 19 người, thì các chi nhánh còn lại chỉ bố trí trung bình 5,9 biên chế, trong biên độ từ 5,3 đến 6,3 biên chế cho mảng nghiệp vụ này. Đây là nghiệp vụ chiếm số lượng biên chế thấp nhất trong các phòng thuộc chi nhánh. Một số chi nhánh có quy mô giao dịch lớn nhưng cũng chỉ bố trí 06 người làm kế toán (ví dụ như Chi nhánh Hải Phòng, Nghệ An, Đắk Lắk và Long An). Chi nhánh Đà Nẵng bố trí 09 biên chế cho Phòng Kế toán - Thanh toán, tuy nhiên, qua xem xét số liệu cho thấy, Chi nhánh Đà Nẵng có doanh số Có (xấp xỉ 120 tỉ đồng) và doanh số Nợ (xấp xỉ 130 tỉ đồng) đối với nghiệp vụ chuyển tiền điện tử liên ngân hàng cao gấp hai lần số liệu bình quân so với các chi nhánh trong nhóm 2 (chỉ khoảng 58 - 61 tỉ đồng).
Với số biên chế nêu trên, các chi nhánh đều đảm bảo thực hiện tốt công tác thanh toán theo chế độ hiện hành, đảm bảo luân chuyển vốn nhanh, kịp thời, an toàn; toàn bộ các nghiệp vụ được được hạch toán trong ngày theo quy định; thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động thanh toán cho các TCTD, kho bạc nhà nước trên địa bàn; hoàn thành công tác quản lý, đầu tư xây dựng sửa chữa trong trường hợp có phát sinh. 100% công chức đảm nhiệm công tác kế toán, thanh toán, tin học hiện nay đều giữ ngạch chuyên viên/kỹ sư tin học; có trình độ Đại học trở lên; đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện của vị trí việc làm yêu cầu, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
3. Nghiệp vụ tổng hợp, phân tích kinh tế và kiểm soát nội bộ
Mảng nghiệp vụ tổng hợp và phân tích kinh tế tại các chi nhánh đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền kịp thời các văn bản điều hành, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN, cấp ủy và chính quyền địa phương về chính sách tiền tệ, tín dụng, hoạt động ngân hàng đến các TCTD, doanh nghiệp và người dân trên địa bàn. Đây là mảng nghiệp vụ chiếm tỉ trọng biên chế tương đối lớn tại các chi nhánh, với bình quân số công chức thực hiện công tác tổng hợp, phân tích kinh tế và kiểm soát nội bộ chiếm 13,6%, trong đó 11,3% công chức đảm nhiệm công tác tổng hợp, phân tích kinh tế, quản lý ngoại hối và vàng; 2,3% công chức đảm nhiệm công việc kiểm soát nội bộ.
Quá trình xem xét, đánh giá, 100% chi nhánh được đánh giá thực hiện tốt công tác thống kê, thu thập thông tin, nghiên cứu và phân tích tình hình kinh tế, tiền tệ để tham mưu cho Thống đốc NHNN trong điều hành, thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và hoạt động ngân hàng trên địa bàn. Các chi nhánh đã thực hiện tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương để thực hiện tốt chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng trên địa bàn, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, người vay vốn bị thiệt hại do nguyên nhân bất khả kháng; phối hợp tốt với cơ quan truyền thông để làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động ngân hàng trên địa bàn.
Công tác quản lý nhà nước về ngoại hối, kinh doanh vàng đảm bảo quy định của NHNN và pháp luật. Số lượng nghiệp vụ phát sinh liên quan đến công tác quản lý ngoại hối và kinh doanh vàng tương đối nhiều và ngày càng tăng qua các năm. Trong đó, số lượng nghiệp vụ phát sinh trong công tác này tại các chi nhánh lớn như Chi nhánh Thành phố Hà Nội và Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh gấp hơn 10 lần so với các chi nhánh khác. Bên cạnh đó, các chi nhánh có cửa khẩu giao thương với các quốc gia khác hoặc những khu vực phát triển về ngành du lịch, dịch vụ, có nhiều khu công nghiệp, có vốn đầu tư nước ngoài cũng ghi nhận mức độ phát sinh nghiệp vụ liên quan đến ngoại hối và vàng cao hơn nhiều lần so với các địa bàn khác. Trong quản lý hoạt động ngoại hối, các chi nhánh đã rất chủ động trong việc rà soát, đôn đốc, kiểm tra các doanh nghiệp tuân thủ chế độ báo cáo vay, trả nợ nước ngoài theo chỉ đạo của NHNN; quản lý, cập nhật đầy đủ dữ liệu trên trang điện tử quản lý vay, trả nợ nước ngoài. Đây là một bước tiến đáng kể trong việc công khai, minh bạch thông tin quản lý trong ngành Ngân hàng.
100% chi nhánh đảm bảo việc duy trì và giữ vững mối quan hệ giữa NHNN và cấp ủy Đảng, các sở, ban, ngành trên địa bàn thông qua kí kết các quy chế, chương trình phối hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giữa các đơn vị.
100% chi nhánh đảm bảo tham gia tiếp xúc cử tri cùng các Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh trước và sau các kỳ họp Quốc hội, tham gia vào quá trình trả lời, giải quyết những kiến nghị của cử tri, doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng trên địa bàn.
Đối với mảng nghiệp vụ kiểm soát nội bộ: Trên thực tế, mảng nghiệp vụ kiểm soát nội bộ được thiết lập và duy trì kiểm soát đối với mọi hoạt động của đơn vị. Hằng năm, số lượng nghiệp vụ phát sinh đối với công tác kiểm soát nội bộ (như kiểm soát tuân thủ, báo cáo định kỳ, xử lý kiến nghị) được kiểm soát tập trung chủ yếu đối với các nghiệp vụ có mức độ rủi ro cao như nghiệp vụ kho quỹ, công tác tài chính - kế toán của đơn vị. Mảng công việc này được bố trí mức biên chế tối thiểu là 01 người đối với các chi nhánh, chỉ có 02 chi nhánh lớn bố trí 04 người do khối lượng nghiệp vụ phát sinh lớn và phức tạp. 100% công chức làm công tác kiểm soát nội bộ đều là người có kinh nghiệm tối thiểu 04 năm công tác trong ngành Ngân hàng và đều có trình độ Cử nhân trở lên.
4. Nghiệp vụ tiền tệ - kho quỹ
Qua thống kê, đánh giá nghiệp vụ tiền tệ - kho quỹ tại các chi nhánh cho thấy, về cơ bản, các chi nhánh đã thực hiện tốt công tác tiền tệ, kho quỹ đảm bảo an toàn, đúng quy định, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu tiền mặt, nhu cầu thanh toán và lưu thông tiền cho các TCTD và kho bạc nhà nước trên địa bàn. Tổ chức giám định, hướng dẫn thực hiện việc xử lý tiền giả, tiền nghi giả và phối hợp chặt chẽ với công an, bộ đội biên phòng địa phương trong công tác đấu tranh, phòng, chống tiền giả, góp phần hạn chế tối đa tiền giả lọt vào ngân hàng.
Qua xem xét cho thấy, các chi nhánh đã bố trí biên chế phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và khối lượng công việc phát sinh của mảng tiền tệ, kho quỹ. Tính bình quân mỗi chi nhánh bố trí 6,1 biên chế cho mảng nghiệp vụ này. Trong đó, có 22/63 chi nhánh (tỉ lệ 34,9%) bố trí 05 người; có 17/63 chi nhánh (tỉ lệ 27%) bố trí 06 người làm công tác tiền tệ, kho quỹ cho thấy, biên chế từ 05 - 06 người là mức biên chế phổ biến, phù hợp được bố trí cho mảng tiền tệ - kho quỹ tại hầu hết các chi nhánh, trừ một số chi nhánh lớn, có kho tiền trung chuyển hoặc có nhu cầu tiền mặt lớn được bố trí số biên chế nhiều hơn theo yêu cầu nhiệm vụ.
Một số chi nhánh gặp khó khăn khi khối lượng thu, chi tiền mặt trên địa bàn ngày càng tăng; tuổi đời bình quân của công chức làm công tác tiền tệ - kho quỹ khá cao (31/63 chi nhánh tương đương 49,2% tổng số chi nhánh có nhân viên kho quỹ trên 50 tuổi), dẫn tới việc hạn chế về sức khỏe, năng lực nên ảnh hưởng tới quá trình thực hiện công việc; số lượng biên chế công chức nghiệp vụ của mảng tiền tệ, kho quỹ thường được bố trí ở mức tối thiểu (01 thủ kho, 01 thủ quỹ, 01 kiểm ngân), dẫn tới tình trạng thiếu nhân lực ở một số tỉnh bội thu về tiền mặt, hoặc khi nhu cầu thu, chi tiền mặt tăng đột biến vào dịp tết hoặc khi có nhân sự nghỉ phép, nghỉ thai sản…; việc bố trí nhân sự thay thế tạm thời có thể phát sinh những rủi ro nhất định do đặc thù công việc thường xuyên tiếp xúc với khối lượng tiền mặt lớn, có thể làm nảy sinh nguy cơ mất an toàn kho quỹ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Do nhân lực hạn chế nên một số cuộc thanh tra, kiểm tra về an toàn kho quỹ tại các TCTD chưa được tổ chức thường xuyên, liên tục.
5. Nghiệp vụ về hành chính
Mảng hành chính gồm những nhiệm vụ liên quan đến công tác hỗ trợ, phục vụ tại chi nhánh, bao gồm các vị trí: Nhân viên văn thư, nhân viên bảo vệ, nhân viên phục vụ và nhân viên lái xe. Đây là mảng nghiệp vụ chiếm tỉ trọng biên chế lớn thứ hai tại các chi nhánh (sau mảng thanh tra, giám sát). Bình quân toàn hệ thống, mỗi chi nhánh bố trí 9,8 biên chế (tương đương với 21,6% tổng số biên chế tại chi nhánh). Trong đó, nhóm những chi nhánh có trên 25% tổng số người làm hành chính đều là những chi nhánh có biên chế thấp, dưới 41 người.
Về cơ bản, trừ một số chi nhánh lớn, có đặc thù về kho tiền trung chuyển, trung tâm vùng… còn lại hầu hết các chi nhánh đều bố trí biên chế tối thiểu cho từng vị trí; cụ thể: Văn thư 01 người, bảo vệ 04 - 05 người, phục vụ 01 - 02 người, lái xe 01 - 02 người); qua xem xét, đánh giá cho thấy, các chi nhánh luôn đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ tại mảng nghiệp vụ này.
Ngoài các mảng nghiệp vụ chính đã đánh giá nêu trên, các chi nhánh còn phải thực hiện các nhiệm vụ như: Công tác thông tin, báo cáo thống kê, thông tin tín dụng, cải cách hành chính, công tác nhân sự, thi đua - khen thưởng, công tác phòng, chống tham nhũng, tội phạm, phòng, chống rửa tiền, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, công tác quốc phòng, an ninh, phòng cháy, chữa cháy… Những công tác này cũng chiếm đáng kể nhân lực, vật lực, thời gian làm việc của các chi nhánh. Trên cơ sở báo cáo đánh giá hiệu quả hoạt động của các chi nhánh cho thấy, các chi nhánh đều chấp hành và thực hiện tốt các nhiệm vụ này. Từ đó, tạo sự đồng thuận, xây dựng được đoàn kết nội bộ, môi trường làm việc dân chủ tại chi nhánh, cùng góp phần thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Qua các nội dung phân tích nêu trên cho thấy, mặc dù còn nhiều khó khăn, với nguồn biên chế hạn hẹp và liên tục bị cắt giảm trong những năm vừa qua theo định hướng chung, khối lượng công việc ngày càng tăng về số lượng, đầu mối đối tượng quản lý, độ phức tạp và yêu cầu đòi hỏi cao về chất lượng công việc, nhất là công tác thanh tra, giám sát, công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, các chi nhánh đã rất nỗ lực cố gắng, bố trí nguồn nhân sự hiện có đảm bảo phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm. Các mảng nghiệp vụ đều được thực hiện thông suốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chấp hành nghiêm các quy định của Nhà nước và của NHNN. Các chi nhánh đang phát huy tốt, hiệu quả, là “cánh tay nối dài” của Thống đốc NHNN, là sự hiện diện quan trọng không thể thiếu của NHNN tại các địa phương. Vai trò, vị thế của NHNN với cấp ủy, chính quyền địa phương, với các TCTD, doanh nghiệp và người dân trên địa bàn ngày càng được nâng lên, thể hiện vị trí không thể thiếu tại các tỉnh, thành phố.
III. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố
Từ việc xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống, trên cơ sở xem xét đến chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, biên chế thực hiện đối với từng mảng nghiệp vụ tại hệ thống chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Nhóm nghiên cứu đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các chi nhánh trong đó tập trung vào các giải pháp về tổ chức cán bộ như sau:
1. Giải pháp về tổ chức bộ máy
Tiếp tục thực hiện chủ trương chung của Đảng, Chính phủ là xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương, bảo đảm cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của NHNN đáp ứng tiêu chí thành lập tổ chức do Chính phủ quy định tại Nghị định số 101/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 và Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ. Duy trì ổn định cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNN với nguyên tắc đề xuất giữ ổn định số lượng đơn vị hành chính thuộc NHNN. Trong đó, giữ nguyên cơ cấu Phòng tại Chi nhánh Thành phố Hà Nội, Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh và 05 chi nhánh có 05 phòng (Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nghệ An, Đắk Lắk). Để phát huy hiệu quả, khắc phục một số bất cập của cơ cấu tổ chức hiện nay, đối với 56 chi nhánh có 04 phòng, nhóm nghiên cứu đề xuất hai phương án sau:
Phương án 1: Văn phòng (hợp nhất các mảng hành chính, nhân sự, kế toán chi tiêu nội bộ); Phòng Tổng hợp và Kiểm soát nội bộ; Phòng Ngân quỹ - Thanh toán (cung ứng dịch vụ thanh toán, ngân quỹ và các dịch vụ NHTW cho các TCTD và kho bạc nhà nước); Thanh tra, giám sát ngân hàng.
Phương án 2: Phòng Tổng hợp; Phòng Kế toán - Ngân quỹ; Phòng Hành chính - Nhân sự; Thanh tra, giám sát ngân hàng.
2. Về quản lý biên chế
Theo định hướng chung, việc giảm biên chế công chức hành chính có thể tiếp tục được áp dụng cho đến năm 2030. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề xuất định hướng chung công tác quản lý biên chế trong giai đoạn 2021 - 2026 như sau: Tiếp tục thực hiện nghiêm túc việc giảm biên chế, tinh giản biên chế theo chủ trương, chính sách của Đảng và quy định pháp luật của Nhà nước. Bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa xác định vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức với sử dụng và quản lý biên chế công chức. Tiếp tục thực hiện giao biên chế gắn với vị trí việc làm và khối lượng công việc của từng vị trí việc làm; giao biên chế phù hợp với mức độ phức tạp, tính chất, đặc điểm, quy mô hoạt động, phạm vi, đối tượng quản lý của từng chi nhánh. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện mô hình chấm điểm, xếp hạng chi nhánh theo quy mô và khối lượng công việc làm cơ sở để giao biên chế. Nghiên cứu phương pháp tính toán số lượng người cần thiết cho bộ phận thanh tra, giám sát ngân hàng để ưu tiên biên chế cho các chi nhánh hiện nay chưa bố trí đủ nguồn lực cán bộ thanh tra, giám sát.
3. Về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức
Bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa xác định vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức với sử dụng và quản lý biên chế công chức. Hướng tới mục tiêu hệ thống vị trí việc làm tại NHNN được xây dựng một cách khoa học, minh bạch và được sử dụng một cách hiệu quả, thực chất trong các khâu của công tác tổ chức cán bộ có liên quan.
4. Về tuyển dụng công chức
Tiếp tục triển khai công tác tuyển dụng, đặc biệt là công tác thi tuyển một cách thận trọng, công khai, minh bạch; nhất quán chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi tuyển. Chú trọng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác tuyển dụng, coi đây là bước nền tảng ban đầu để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của NHNN. Trong đó, nghiên cứu xây dựng và ban hành quy trình ISO áp dụng trong công tác tuyển dụng của NHNN; nghiên cứu triển khai chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; để từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực; nghiên cứu triển khai trang bị phần mềm thi trắc nghiệm trên máy của NHNN.
5. Về công tác tiền lương và chế độ cho người lao động
Tập trung hướng đề xuất duy trì các khoản chi lương, chi khen thưởng, phúc lợi định kỳ và đột xuất và chi bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức của NHNN như hiện nay. Nghiên cứu đề xuất chủ động đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trong toàn bộ hệ thống chính trị; trong đó lưu ý NHNN có điểm đặc thù vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng, đồng thời thực hiện chức năng của NHTW về phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
6. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức NHNN nói chung và các chi nhánh nói riêng; nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý, đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác cán bộ, phù hợp với xu hướng phát triển của hệ thống ngân hàng
7. Về công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ
Công tác quy hoạch cần bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, liên thông, công khai, minh bạch; bảo đảm cân đối, hài hòa, hợp lí giữa quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng; giữa đánh giá với quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ, giữa nguồn cán bộ tại chỗ với nguồn cán bộ từ nơi khác; đảm bảo cơ cấu ba độ tuổi, tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác. Công tác bổ nhiệm cần đảm bảo bố trí đúng người, đúng việc, đúng năng lực, hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
ThS. Đặng Duy Cường (Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, NHNN)
Nhóm nghiên cứu NHNN (ThS. Nguyễn Thị Cúc, ThS. Bùi Lệ Hằng, ThS. Nguyễn Hoài Nam, ThS. Phạm Văn Hưng, Nguyễn Thu Thủy, ThS. Nguyễn Thị Thu Thoa, ThS. Lã Tú Anh, ThS. Nguyễn Thị Trang Nhung)
Tin bài khác


Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ
