ESG trong ngành Ngân hàng

Hoạt động ngân hàng
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất mà thế giới hiện nay phải đối mặt và có khả năng ảnh hưởng nặng nề đến những khu vực dễ bị tác động trên thế giới. Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam tin tưởng vào một hành trình dịch chuyển công bằng mang lại lợi ích cho con người và hành tinh của chúng ta.
aa

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất mà thế giới hiện nay phải đối mặt và có khả năng ảnh hưởng nặng nề đến những khu vực dễ bị tác động trên thế giới. Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam tin tưởng vào một hành trình dịch chuyển công bằng mang lại lợi ích cho con người và hành tinh của chúng ta. Là một ngân hàng đa quốc gia hàng đầu, Standard Chartered đang nỗ lực giảm lượng phát thải carbon trong hoạt động vận hành của ngân hàng và hỗ trợ cộng đồng phục hồi, bao gồm hỗ trợ việc đổi mới, sáng tạo tại các thị trường nơi công nghệ mới có thể có tác động lớn nhất; dự định đạt mức phát thải carbon ròng bằng “0” trong hoạt động vận hành của ngân hàng vào năm 2025 và trong hoạt động hỗ trợ tài chính của ngân hàng vào năm 2050.


Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam cam kết hỗ trợ, tài trợ nguồn vốn nhằm giúp cho việc tiếp cận vốn trở nên dễ dàng hơn, giúp triển khai các dự án năng lượng sạch, giao thông và cơ sở hạ tầng mới; cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính giúp thúc đẩy phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm cho người dân và doanh nghiệp - thúc đẩy tăng trưởng bằng những hành động cụ thể, thiết thực.

1. Vai trò của khung ESG với phát triển bền vững

Có nhiều phương pháp áp dụng khung ESG (E-Environment: Môi trường, S-Social: Xã hội và G-Governance: Quản trị) khác nhau, bao gồm:

(i) Đầu tư có trách nhiệm là đánh giá một loạt các yếu tố ESG tác động đến lợi nhuận tài chính. Đầu tư có trách nhiệm thường bao gồm việc tập trung vào các chủ đề thiết yếu nhất đối với một ngành nghề. Việc đầu tư này sử dụng thông tin ESG trong việc ra quyết định;

(ii) Đầu tư bền vững là tìm cách kết hợp lợi nhuận tài chính và trách nhiệm với cộng đồng, xã hội. Điều này có thể bao gồm các khoản đầu tư có đạo đức hoặc xanh và có thể chỉ tập trung vào các vấn đề môi trường hoặc kết quả đầu tư như đóng góp cho các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc như một ưu tiên cùng với lợi nhuận tài chính.

Các nhà đầu tư, bao gồm cả các nhà quản lí tài sản, có xu hướng xem xét tính bền vững của các công ty được đầu tư thông qua lăng kính “Môi trường”, “Xã hội” và “Quản trị” hay còn gọi là ESG. Điều này đã thay đổi đáng kể so với các khoản đầu tư trước đây vốn chủ yếu tập trung vào “Quản trị”, chỉ một phần nhỏ tập trung vào các vấn đề “Môi trường” trọng điểm. Điều đó cho thấy, đầu tư vào ESG hiện là xu hướng chủ đạo đối với các nhà đầu tư để nhận ra rằng, hiệu quả của công ty trên một số danh mục ESG là thước đo mạnh mẽ về hiệu quả tổng thể và tính bền vững của công ty đó.

Kể từ khi thị trường suy thoái vì đại dịch Covid-19, cổ phiếu có liên quan đến ESG liên tục tăng trưởng tốt hơn các chỉ số S&P 500 và MSCI Europe. Xu hướng này thể hiện sự ưa thích ngày càng tăng của nhà đầu tư đối với các công ty có tiếp nhận quan điểm của các bên liên quan đối với hoạt động kinh doanh của họ thay vì chỉ thuần túy tiếp nhận quan điểm của cổ đông. Đây là yếu tố thay đổi cuộc chơi về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Nhìn lại đại dịch Covid-19, các công ty hỗ trợ nhân viên, khách hàng, cũng như cộng đồng của họ và thể hiện tư duy về ESG, qua đó, ngày càng thu hút các nhà đầu tư.

Vì những lí do tương tự, khi các nền kinh tế bắt đầu thoát khỏi tình trạng đóng cửa do đại dịch Covid-19, các công ty đã vượt ra ngoài mục tiêu tăng trưởng hạn hẹp truyền thống để quan tâm đến lợi ích rộng hơn của các bên liên quan. Các công ty nhận thức rằng, họ sẽ cần phải làm nhiều hơn nữa để chứng minh đầy đủ cách họ đang phục vụ lợi ích rộng lớn hơn của xã hội. Những sự phát triển này đang biến ESG trở thành một hoạt động đầu tư “bình thường mới” và ngày càng có nhiều chủ sở hữu tài sản yêu cầu các nhà quản lí tài sản của họ có chiến lược đầu tư bền vững.


2. Khung pháp lí liên quan đến tiêu chuẩn ESG tại Việt Nam

Có thể nói, đây là cơ hội để các cơ quan quản lí định hình xã hội mà chúng ta muốn hướng tới, tái cơ cấu nền kinh tế song song với việc đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chọi với các tác động bên ngoài. Tại Việt Nam, Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 bao gồm xanh hóa sản xuất, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, khuyến khích lối sống xanh và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Đối với Việt Nam, để đảm bảo thực hiện thành công các tiêu chuẩn ESG, cần bao gồm các yếu tố sau:

Thứ nhất, về môi trường chính sách quốc gia: Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đã tạo nên nền tảng vững chắc hiện tại. Chiến lược này nêu ra các mục tiêu tổng thể, các dự án ưu tiên thực hiện trong giai đoạn 2011 - 2015 và kế hoạch cho giai đoạn 2016 - 2025 cũng như tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, nền kinh tế carbon thấp và tăng trưởng xanh là các nguyên tắc chủ đạo để đạt được phát triển bền vững, cũng như việc hạn chế phát thải khí nhà kính là nguyên tắc để phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, về khuôn khổ và phát triển chiến lược: Khuôn khổ chiến lược được xây dựng từ các lãnh đạo chủ chốt và chuyên gia của các bộ, ngành liên quan (như: Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải,…) và các đối tác chiến lược như: Nhóm các Đối tác quốc tế (IPG) và Liên minh tài chính Glasgow vì mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (“GFANZ”). Chúng ta phải ưu tiên xanh hóa ngành tài chính - ngân hàng, thúc đẩy các dự án tăng trưởng xanh trong tất cả các ngành nghề và đảm bảo các quy trình minh bạch cho các dự án năng lượng. Để thực hiện được điều này, Việt Nam cần hoạch định và thực hiện các chính sách, cải cách và quản trị theo chuẩn quốc tế, minh bạch và chuẩn hóa để thu hút nguồn tài chính từ khu vực công và tư. Tại Hội nghị COP28, tháng 12/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã công bố kế hoạch chi tiết về Kế hoạch huy động nguồn lực (RMP) của Việt Nam để hướng tới một nền kinh tế xanh tích cực và công bằng.

Thứ ba, về triển khai và quản trị, theo đó đưa ra các quy trình và hành động chính cần triển khai trong những năm tới và thập kỉ tới. Việc triển khai đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bộ, ban, ngành liên quan nhằm quản lí và giám sát quy trình thực hiện gây ra biến đổi khí hậu và các tác động liên quan. Điều này cũng sẽ giúp giảm thiểu rủi ro quảng cáo xanh.
Thứ tư, về thách thức và đánh giá: Cần thành lập tuyến phòng thủ thứ hai với chuyên môn chuyên sâu về tài chính bền vững, quản lí rủi ro môi trường và xã hội, kiểm toán, tuân thủ, rủi ro pháp lí, rủi ro danh tiếng và rủi ro bền vững, các vấn đề tài chính và quy định pháp luật.


3. Một số nguyên tắc chung trong đánh giá rủi ro môi trường, xã hội

Một là, trong quy trình đánh giá rủi ro môi trường và xã hội, các tổ chức tín dụng cần xác minh xem khách hàng có hệ thống quản lí rủi ro xã hội và môi trường hay không, hệ thống này thể hiện tính chất và quy mô hoạt động của khách hàng.

Hai là, các sản phẩm được cung cấp theo khung sản phẩm xanh và bền vững, cần tuân thủ theo các tiêu chuẩn nêu trên, cũng như tuân thủ theo yêu cầu mục đích sử dụng vốn.

Ba là, các hoạt động, mục đích sử dụng vốn. Ví dụ như tài trợ vi mô cho các nhóm dân cư dễ bị ảnh hưởng, hoặc các dự án lớn như xây dựng và/hoặc vận hành bệnh viện, phòng khám, trung tâm chăm sóc sức khỏe và cơ sở giáo dục. Khung hoạt động này không bao gồm các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động có tác động tiêu cực đến nhân quyền như lao động ép bức, lao động trẻ em hoặc xung đột...

Bốn là, đối với những khách hàng không đáp ứng được các tiêu chuẩn dự kiến hoặc có nhận thức hạn chế về rủi ro môi trường và xã hội, các tổ chức tín dụng nên cung cấp hỗ trợ thông qua nhóm chuyên gia môi trường và phát triển bền vững. Nếu khách hàng sẵn sàng cam kết thay đổi, nhóm chuyên gia này có thể giúp xác định các mục tiêu để cải thiện và tiếp cận tới nguồn vốn tài chính xanh.

Ngân hàng Standard Charterd Việt Nam thường xuyên xem xét các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội cho khách hàng thông qua các quan điểm một cách công khai; đưa ra các quan điểm, đánh giá xem có nên cung cấp dịch vụ tài chính cho khách hàng hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm hay không, gồm các lĩnh vực: (i) Công nghiệp khai thác (dầu khí, khai thác mỏ và kim loại); (ii) Sản xuất điện (năng lượng nhiên liệu hóa thạch, năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo, bao gồm cả thủy điện); (iii) Nông nghiệp (nông nghiệp, thủy sản, thuốc lá, lâm nghiệp, dầu cọ); (iv) Cơ sở hạ tầng và giao thông; (v) Hóa chất và sản xuất.

Ngoài ra, Ngân hàng Standard Charterd Việt Nam có hai quan điểm xuyên suốt về biến đổi khí hậu và nhân quyền. Bộ phận quản lí rủi ro môi trường và xã hội (ESRM), thuộc bộ phận tài chính bền vững, bao gồm các chuyên gia trong ngành phối hợp với các trưởng phòng quan hệ khách hàng của Ngân hàng để hỗ trợ họ đưa ra các yêu cầu đặt ra trong từng quan điểm.

Ngân hàng Standard Charterd Việt Nam từ chối các giao dịch hoặc rút khỏi các mối quan hệ khách hàng khi khách hàng không thể hiện ý định hoặc tiến độ đáp ứng các tiêu chuẩn đặt ra. Để tiếp cận nguồn tài chính từ các tổ chức tín dụng quốc tế cho tài chính xanh, các doanh nghiệp và tổ chức cần tuân theo các tiêu chí đánh giá và phê duyệt nghiêm ngặt và toàn diện - chủ yếu đối với thẩm định đánh giá rủi ro môi trường và xã hội (ESRA) và sự phù hợp với khung sản phẩm tài chính xanh và bền vững.

Với mong muốn trở thành chất xúc tác cho sự phát triển kinh tế - xã hội và điều này nằm ở trọng tâm chiến lược kinh doanh của Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam. Đầu tư vào cộng đồng là một phần quan trọng trong chiến lược hoạt động của Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam nhằm mang lại lợi ích cho hàng triệu thanh niên Việt Nam thông qua các dự án của ngân hàng về giáo dục tài chính, kĩ năng sống, khả năng lãnh đạo và khởi nghiệp. Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam đã đầu tư hơn 6 triệu USD vào các chương trình cộng đồng của mình tại Việt Nam trong 10 năm qua và sẽ tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa.

4. Kết luận

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức cấp bách nhất mà thế giới ngày nay phải đối mặt. Bên cạnh đó, cơ hội và thách thức để Việt Nam đạt được Net Zero là rất lớn. Việc dịch chuyển sang Net Zero sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường tương lai. Nếu không hành động nhanh chóng và quyết liệt, chúng ta sẽ không ngăn chặn được những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Chúng ta cần tiếp tục cùng đồng hành xây dựng và hoàn thiện các khung pháp lí cụ thể về tín dụng xanh cũng như các dự án đầu tư kinh doanh có tác động đến môi trường, đặt ra các tiêu chuẩn về tín dụng xanh, xây dựng danh mục các ngành, lĩnh vực xanh. Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng các tiêu chuẩn này để áp dụng chung nhằm đánh giá khi cấp tín dụng xanh. Bên cạnh đó, cần sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành; đồng thời, tiếp tục tận dụng triệt để kiến thức của nhân loại kết hợp cùng với việc chuyển giao công nghệ và triển khai kĩ thuật trên hành trình này. Chúng ta cần phối hợp hài hòa và có tổ chức, cùng tham gia vào sứ mệnh và thực hiện chuyển đổi bền vững cho quốc gia.

Nguồn tham khảo:

1. Standard Chartered (2023). Khung sản phẩm Xanh và Bền vững, Version 5.

Michele Wee
Tổng Giám đốc Standard Chartered Bank Việt Nam


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Xem thêm
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng