Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Chính sách
Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
aa

Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh cần tạo động lực, truyền cảm hứng cho các thương nhân và phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu trên phạm vi cả nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết số 68-NQ/TW thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân
Nghị quyết số 68-NQ/TW thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân (Nguồn ảnh: Internet)

1. Chuyển đổi thuế là cần thiết và hữu ích

Theo Nghị quyết số 68-NQ/TW, Việt Nam hiện có trên 5 triệu hộ kinh doanh, tạo ra hàng chục triệu việc làm, tương đương với khối công ty tư nhân, chiếm vai trò động lực chính trong phát triển nhiều ngành, lĩnh vực, nhất là nông nghiệp và thương mại, dịch vụ. Trước đây, phần lớn hộ kinh doanh thực hiện nghĩa vụ thuế theo hình thức khoán, tức là cơ quan thuế ấn định mức doanh thu và tính thuế theo tỉ lệ nhất định, dao động từ 1,5 - 4,5% tùy ngành nghề. Phương pháp này tuy thiếu chính xác, nhưng bảo đảm tính ổn định trong thu ngân sách và đơn giản, phù hợp với đặc thù giao dịch tiền mặt, quản lý sổ sách thủ công của hộ kinh doanh nhỏ lẻ.

Theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW và quy định mới của ngành thuế, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chính thức chấm dứt cơ chế thuế khoán đối với hộ kinh doanh, thay bằng tự kê khai, nộp thuế theo doanh thu thực tế; đồng thời, mở rộng cơ sở tính thuế, nhất là thu thuế điện tử khởi tạo từ máy tính tiền.

Theo Thông tư số 32/2025/TT-BTC ngày 31/5/2025 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Quản lý thuế ngày 13/6/2019, Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ, Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP, từ ngày 01/6/2025, hộ kinh doanh có doanh thu trên 1 tỉ đồng/năm và thuộc một số lĩnh vực như ăn uống, bán lẻ, khách sạn, vận tải… sẽ được khuyến khích sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối dữ liệu với cơ quan thuế. Nếu hộ kinh doanh đã đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử trước ngày 01/6 thì không bắt buộc phải chuyển sang dùng máy tính tiền, mà tiếp tục sử dụng hình thức hóa đơn điện tử hiện tại.

Cải cách quản lý thuế này phù hợp với xu thế chuyển đổi số và tiến gần hơn đến các chuẩn mực quản lý thuế hiện đại của thế giới, góp phần tăng minh bạch và công bằng, giảm gian lận và thất thu thuế, thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của người nộp thuế, mở ra cơ hội nâng tầm hộ kinh doanh trở thành doanh nghiệp và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân.

Thành công của cải cách này không chỉ phụ thuộc vào thể chế, công nghệ, mà còn cần sự đồng hành, ủng hộ của toàn xã hội, đặc biệt là chính quyền cơ sở và sự đồng thuận cao của bản thân người nộp thuế.

Trên thực tế, Bộ Tài chính đã và đang triển khai 7 nhóm giải pháp đồng bộ, từ pháp lý, công nghệ cho đến hỗ trợ thực tiễn: (1) Sửa đổi Luật Quản lý thuế, trong đó bỏ hoàn toàn cơ chế thuế khoán đối với hộ, cá nhân kinh doanh và áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp đi kèm yêu cầu ghi sổ kế toán, lập hóa đơn như doanh nghiệp và điều chỉnh Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế giá trị gia tăng để quy định mức doanh thu không chịu thuế, bảo vệ nhóm hộ kinh doanh nhỏ; (2) Tổ chức lại bộ máy cơ quan thuế theo hướng tinh gọn, hiệu quả; (3) Quản lý hộ kinh doanh chuyển từ chức năng sang theo đối tượng, bám sát địa bàn, từ đó cá thể hóa trách nhiệm của từng cán bộ thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ, tránh thất thu ngân sách; (4) Đơn giản hóa sổ sách kế toán, hóa đơn và cung cấp miễn phí phần mềm kế toán - hóa đơn dùng chung, giúp hộ kinh doanh dễ tiếp cận và tuân thủ, đồng thời giảm gánh nặng thủ tục; (5) Phát triển hệ thống kê khai điện tử tự động, cho phép hệ thống tự tính toán nghĩa vụ thuế dựa trên dữ liệu hóa đơn; (6) Nhờ đó, hộ kinh doanh chỉ cần xác nhận thay vì phải khai tay từng khoản; (7) Các phần mềm còn có chức năng nhắc thời hạn kê khai, cảnh báo sai sót…

Đồng thời, Bộ Tài chính đang tích cực triển khai hóa đơn điện tử từ máy tính tiền. Từ 01/7/2022, hóa đơn điện tử được áp dụng toàn quốc. Từ 15/12/2022, Bộ Tài chính đã triển khai thêm hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, công cụ giúp hộ kinh doanh xuất hóa đơn ngay tại điểm bán. Từ tháng 6/2025, hộ kinh doanh doanh thu trên 1 tỉ đồng/năm trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống, khách sạn, bán lẻ, vận tải hành khách, thẩm mỹ, vui chơi giải trí… buộc phải áp dụng hình thức này để giúp cơ quan thuế nắm được chính xác doanh thu thực tế, giảm thất thu thuế. Chủ hộ kinh doanh có doanh thu trên 1 tỉ đồng không sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế có thể bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng về hành vi không lập hóa đơn khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người mua theo quy định tại khoản 5 Điều 24 Nghị định 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn. Trường hợp lập hóa đơn điện tử từ máy tính tiền không có kết nối, chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế thì bị phạt tiền từ 4 - 8 triệu đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 24 Nghị định 125/2020/NĐ-CP.

Việc đưa nhóm hộ kinh doanh lớn áp dụng hóa đơn điện tử từ máy tính tiền được kỳ vọng sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa xuống các hộ nhỏ hơn, tiến tới bao phủ toàn bộ khu vực kinh doanh cá thể trong hệ thống quản lý thuế hiện đại do mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh như tiết kiệm thời gian, chi phí khi cho phép người bán hàng xuất hóa đơn ngay tại thời điểm giao dịch, giảm thiểu độ trễ giữa thời điểm thanh toán và thời điểm lập hóa đơn. Dữ liệu hóa đơn được chuyển đến cơ quan thuế thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ nhận, truyền, lưu trữ dữ liệu điện tử, đảm bảo tính chính xác và kịp thời. Việc này còn cảnh báo người tiêu dùng về rủi ro lập hóa đơn của người bán đang thuộc đối tượng ngừng sử dụng hóa đơn điện tử, nâng cao uy tín của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, thể hiện sự chuyên nghiệp, hiện đại. Từ dữ liệu hóa đơn, dòng tiền, thu nhập thực tế, cơ quan thuế có thể phát hiện nhanh các dấu hiệu rủi ro, trốn thuế, ngược lại, hộ nào tuân thủ tốt sẽ được ưu tiên hỗ trợ…

Đồng thời, cơ quan thuế đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật cho hộ kinh doanh trong giai đoạn chuyển tiếp và tăng cường giám sát tuân thủ. Các hộ sẽ được nhắc nhở, hỗ trợ cài đặt máy tính tiền, phần mềm hóa đơn, thậm chí được hỗ trợ tài chính nếu khó khăn. Bộ Tài chính cũng tích cực số hóa và kết nối dữ liệu với các bộ ngành, ngân hàng, cơ quan thị trường; đề nghị chính quyền địa phương chủ động phối hợp, ban hành chính sách hỗ trợ thêm để giúp hộ kinh doanh yên tâm chuyển đổi.

2. Nhận diện những quan ngại và tác động trái chiều

Trên thực tế, một số hộ kinh doanh đã tích cực hợp tác, chủ động tuân thủ yêu cầu chuyển đổi thuế và được cơ quan chức năng tích cực hỗ trợ. Song, vẫn còn không ít băn khoăn, quan ngại và bất đồng trước yêu cầu và tác động hai mặt của chuyển đổi công tác quản lý thuế, tập trung ở một số vấn đề sau:

Trước hết, các hộ kinh doanh lo bị truy thu sau khi bỏ thuế khoán

Hiện nhiều người dân thắc mắc và lo ngại về mục đích việc cơ quan thuế hướng dẫn các cá nhân kinh doanh online khi đến cơ quan thuế đăng ký tài khoản nộp thuế phải sao kê tài khoản ngân hàng từ năm 2019 đến nay để xác định lại mức doanh thu và tiến hành truy thu thuế thu nhập cá nhân nếu có doanh thu vượt quá 100 triệu đồng/năm và phạt chậm thu 0,05%/ngày chậm nộp. Người dân quan ngại rằng, việc hồi tố chính sách thu thuế này là không phù hợp thực tiễn chính sách thời kỳ Covid-19.

Đặc biệt, từ 01/6/2025, các hộ kinh doanh có doanh thu trên 1 tỉ đồng sử dụng hóa đơn điện tử cho từng lần bán, nếu doanh thu tăng đột biến, ngành thuế có thể truy thu những tháng trước đây của họ hay không trong khi tình hình thị trường biến động thất thường giai đoạn trong và hậu Covid-19.

Theo ông Mai Sơn - Phó Cục trưởng Cục Thuế, Bộ Tài chính, cơ quan thuế sẽ không truy thu các tháng trước đây với điều kiện doanh thu theo xuất hóa đơn của hộ, cá nhân kinh doanh tương đương với mức khoán. Trường hợp hộ khoán có thay đổi quy mô kinh doanh (diện tích kinh doanh, lao động, doanh thu...), họ phải thông báo, điều chỉnh tờ khai. Cơ quan thuế căn cứ vào tờ khai, cơ sở dữ liệu và nếu xác định doanh thu khoán thay đổi từ 50% trở lên, sẽ thông báo thay đổi mức thuế khoán cho hộ kinh doanh.

Thứ hai, nhiều hộ kinh doanh lo lắng về hóa đơn đầu vào và kỹ năng sử dụng công nghệ và giấy tờ sổ sách phức tạp

Hiện nhiều người dân và hộ kinh doanh bị lúng túng trước các quy định yêu cầu kê khai doanh thu thực tế và xuất hóa đơn cho từng giao dịch vì thiếu hệ thống ghi chép hiện đại và hàng hóa không có hóa đơn đầu vào, khi thể chế yêu cầu tính chuẩn nhưng thực tiễn chưa được chuẩn hóa. Bởi thông lệ nhiều hàng hóa trong chợ đầu mối, đại lý nhỏ, hoặc các kênh phân phối truyền thống thường không đi kèm hóa đơn chính thức, thậm chí việc mua bán chỉ dựa trên “lòng tin” và giấy viết tay.

Theo quy định mới, muốn xuất hóa đơn điện tử thì hàng hóa phải có nguồn gốc hợp lệ, chứng minh được qua hóa đơn đầu vào. Như vậy, những mặt hàng từng nhập về không hóa đơn sẽ nằm trong “vùng xám” pháp lý.

Bên cạnh đó, nhiều người dân và hộ kinh doanh ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa bày tỏ lo lắng không chỉ tốn thêm chi phí mua sắm, lắp đặt và bảo trì công nghệ cho hệ thống máy tính, phần mềm liên quan; mà còn ngại ngần vì phần mềm hóa đơn điện tử có thiết kế thiếu thân thiện và thuận lợi với người lớn tuổi, nhất là về giao diện hiển thị.

Thứ ba, áp lực giảm thanh toán không dùng tiền mặt và tăng giá hàng

Lo ngại bị truy thu thuế này khiến làn sóng dùng tiền mặt xuất hiện trở lại khi nhiều cơ sở kinh doanh từ chối nhận chuyển khoản. Một số nơi nhận chuyển khoản, nhưng đề nghị khách hàng không ghi các nội dung như mua, tiền cọc, tiền hàng, mà sử dụng nội dung thanh toán mập mờ, như “trả tiền mượn”, “tiền ship”, “tiền cafe”... hoặc thu thêm phụ phí khi khách chọn trả qua ngân hàng.

Đặc biệt, xu hướng né thuế cũng khiến các hộ kinh doanh thu hẹp quy mô hoặc chuyển sang hoạt động ngầm, phi chính thức và suy giảm tiềm năng đóng góp dài hạn, khiến ngân sách nhà nước bị thất thu, làm chậm tiến trình số hóa, khiến Việt Nam bị tụt hậu so với các quốc gia khác trong khu vực về mức độ hiện đại hóa tài chính. Nếu không được kiểm soát, xu hướng này còn làm suy yếu tính công bằng và minh bạch của thể chế thuế. Ngoài ra, chi phí nộp thuế tăng sẽ kéo theo giá cả hàng hóa, dịch vụ có thể tăng lên.

3. Cần chính sách đồng bộ, lộ trình hợp lý, tăng đồng thuận xã hội

Để giải tỏa quan ngại và gia tăng đồng thuận xã hội về không hồi tố truy thu thuế trước 01/6/2025, đông đảo chuyên gia và người dân đồng tình với đề xuất của bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam: Trong thời gian đầu chuyển đổi, nhà điều hành không truy thu phần chưa kê khai hoặc kê khai thiếu trước đây của hộ kinh doanh. Việc này nhằm tạo ra "điểm khởi đầu mới", khuyến khích người dân trung thực trong kê khai thuế. Sau thời điểm này, cơ quan quản lý có thể đưa ra chính sách phạt với trường hợp không chủ động.

Việc cơ quan thuế sớm khẳng định và truyền thông rộng rãi đề nghị này là cấp thiết nhằm sớm xóa nỗi lo có thực đó cho người dân; khắc phục lối suy diễn áp đặt một chiều thiếu thực tiễn thị trường, đảm bảo sự công bằng trách nhiệm giữa người dân với cơ quan thuế trong xác định mức thuế khoán trước đây; đồng thời, khuyến khích chuyển đổi thuế, giảm thiểu các tác động tiêu cực, mặt trái của kiểu hồi tố chính sách này….

Thực tiễn đòi hỏi mọi chính sách thuế đều phải trên nguyên tắc công bằng, minh bạch, đối thoại hai chiều và có căn cứ thực tiễn, đồng thời đảm bảo mục tiêu khuyến khích toàn dân thi đua làm giàu lành mạnh; tạo động lực khuyến khích hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu suất, tạo ra doanh thu cao hơn…

Thực tế cho thấy, để quy định mới đi vào cuộc sống một cách hiệu quả, ngoài hỗ trợ kỹ thuật, cơ quan quản lý cần có thêm cơ chế khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi, cũng như truyền thông rõ ràng để người dân hiểu đúng vai trò của hóa đơn điện tử trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng. Hiện nay, hàng hóa từ chợ đầu mối, đại lý bán buôn vẫn là nơi cung cấp chính cho tiểu thương. Nhưng không phải nơi nào cũng có hóa đơn rõ ràng. Vì thế, nếu không có biện pháp để các nhà cung ứng đầu vào cũng tuân thủ chế độ hóa đơn, người bán lẻ sẽ rơi vào thế khó. Nói cách khác, nếu chỉ áp dụng với người bán, mà không chuẩn hóa cả hệ thống cung ứng, chính sách sẽ khó hiệu quả.

Bởi vậy, ngành thuế cần có lộ trình chuyển đổi hợp lý, bước đi thận trọng, đặt con người làm trung tâm. Thay vì “áp lệnh” một cách đột ngột, ngành thuế cần giãn thêm thời gian triển khai, tạo điều kiện để các hộ kinh doanh nhỏ có thời gian thích nghi và làm quen dần với công nghệ mới, với sự đồng hành thực chất, không chỉ qua văn bản pháp lý, mà bằng hành động cụ thể như tập huấn miễn phí, hỗ trợ cài đặt phần mềm, cung cấp máy tính tiền giá rẻ, tư vấn kê khai…

Trước mắt, cần chú ý xây dựng và cải tiến hệ thống hóa đơn điện tử theo hướng thân thiện, đơn giản, chi phí thấp, kết nối chặt chẽ dữ liệu giữa ngân hàng, ví điện tử, nền tảng số và cơ quan thuế, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn để phát hiện bất thường, mà không cần thanh tra tràn lan. Đồng thời, trong quá trình triển khai cần tăng cường hoạt động hỗ trợ tại chỗ và truyền thông rõ ràng, kịp thời, đầy đủ cho các đối tượng liên quan; linh hoạt kết hợp với ưu đãi thuế, hỗ trợ vốn và chuyển đổi số tạo động lực hợp tác, kê khai trung thực, kết nối hóa đơn.

Những thách thức trong tiến trình chuyển đổi từ nền kinh tế phi chính thức sang nền kinh tế số cần được nhận diện đầy đủ, khách quan và việc xử lý cần có lộ trình, tiếp cận nhân văn và hỗ trợ kịp thời. Nếu không kiểm soát đúng cách, hiện tượng né tránh có thể làm gián đoạn quá trình chuyển đổi số trong ngành thuế và làm suy giảm lòng tin vào hệ thống pháp luật tài chính, cũng như làm dấy lên làn sóng “bất hợp tác” ngầm trong khu vực kinh tế hộ cá thể, vốn chiếm tỉ trọng rất lớn trong GDP phi chính thức tại Việt Nam.

Trên hành trình chuyển đổi thuế, các hộ kinh doanh cần nhận được sự đồng hành, hỗ trợ không chỉ từ cơ quan thuế, mà còn từ các đơn vị công nghệ, các hội ngành nghề, các chương trình hỗ trợ từ chính quyền địa phương trong hệ sinh thái phát triển kinh tế số toàn diện cho khu vực kinh tế hộ; cần xây dựng một hệ thống hỗ trợ kỹ thuật toàn diện cho các hộ kinh doanh, bao gồm tổ tư vấn tại địa phương, tổng đài hướng dẫn và các khóa tập huấn về hóa đơn điện tử, kế toán cơ bản, gồm phần mềm, máy móc, chuẩn dữ liệu thống nhất, cổng kết nối mở, các quy trình xử lý rõ ràng cho các tình huống phổ biến, như đổi trả hàng, chênh lệch thuế suất hay các hình thức thanh toán linh hoạt như COD, chuyển khoản, ví điện tử; coi trọng sự đồng bộ dữ liệu giữa ngành thuế với các hệ thống thanh toán, ngân hàng, bảo hiểm xã hội, thậm chí với sàn thương mại điện tử. Chỉ khi dữ liệu được liên thông, xử lý thống nhất theo thời gian thực, thì hộ kinh doanh mới thực sự được giảm gánh nặng hành chính và đây mới chính là đích đến mà cải cách số hóa đang hướng tới.

Ngoài ra, cần chính sách hỗ trợ tài chính cho hộ kinh doanh, như miễn phí phần mềm hóa đơn, hỗ trợ thiết bị đầu cuối hoặc trợ giá chữ ký số, mở rộng dịch vụ ngân hàng số và cung cấp các giải pháp tài chính vi mô.

Một lộ trình từng bước, kết hợp giữa quản lý chặt chẽ và hỗ trợ hiệu quả sẽ giúp đạt được mục tiêu kép: Vừa tăng niềm tin, tạo động lực và đồng thuận xã hội, nuôi dưỡng khu vực kinh tế tư nhân phát triển theo hướng bền vững, vừa đảm bảo thu đúng, thu đủ cho ngân sách và phát triển nền kinh tế chung của cả nước…

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

2. Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ.

3. https://baochinhphu.vn/xoa-thue-khoan-ho-kinh-doanh-buoc-vao-giai-doan-phat-trien-moi-10225053112100751.htm

4. https://laodong.vn/kinh-doanh/chuyen-doi-so-ho-kinh-doanh-go-kho-tu-phan-mem-den-tam-ly-1515142.ldo

5. https://vnexpress.net/ho-kinh-doanh-lo-bi-truy-thu-sau-khi-bo-thue-khoan-4896895.html

6. https://nhipsongdoanhnghiep.laodongcongdoan.vn/ho-kinh-doanh-ban-khoan-khi-phai-len-so-111641.html

7. https://theleader.vn/ngan-hang-toat-mo-hoi-khi-ho-kinh-doanh-nhan-tien-mat-de-ne-thue-d40645.html

TS. Nguyễn Minh Phong

Tin bài khác

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Xây dựng hành lang pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Xây dựng hành lang pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý quản lý tiền kỹ thuật số, một lĩnh vực vừa nhiều tiềm năng đổi mới, vừa ẩn chứa rủi ro hệ thống và pháp lý phức tạp. Bối cảnh thế giới cho thấy xu hướng hợp pháp hóa có kiểm soát, đặt trọng tâm vào bảo vệ nhà đầu tư, giám sát rủi ro và thúc đẩy phát triển công nghệ. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, bài viết này đề xuất một số khuyến nghị về việc xây dựng khung pháp luật quản lý tiền kỹ thuật số ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ - tài khóa từ các nền kinh tế lớn đến tỉ giá tại Việt Nam

Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ - tài khóa từ các nền kinh tế lớn đến tỉ giá tại Việt Nam

Giai đoạn 2018 - 2023 được đánh giá là một trong những giai đoạn biến động của kinh tế toàn cầu khi một loạt các sự kiện bất thường, ngoài dự đoán đã xảy ra, ảnh hưởng đến môi trường vĩ mô cũng như hệ thống tài chính tại các quốc gia. Theo đó, các nền kinh tế lớn trên thế giới bao gồm Mỹ, EU, Trung Quốc có những điều chỉnh lớn về chính sách tiền tệ - tài khóa và những điều chỉnh này đã ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô toàn cầu như lãi suất, tỉ giá. Nhóm tác giả đã thực hiện khái quát những thay đổi chính trong điều hành chính sách tiền tệ - tài khóa của ba quốc gia lớn và ước lượng tác động đến tỉ giá tại Việt Nam. Kết quả cho thấy, chỉ có những điều chỉnh trong chính sách tiền tệ của Mỹ và EU mới có ảnh hưởng đến tỉ giá, còn sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc và chính sách tài khóa cơ bản không có nhiều tác động đến tỉ giá Việt Nam.
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Xem thêm
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng