Đánh giá hoạt động mua, bán nợ thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt và đề xuất giải pháp

Hoạt động ngân hàng
Hoạt động mua, bán nợ thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) là một nghiệp vụ quan trọng của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (viết tắt là Công ty Quản lý tài sản - VAMC) góp phần xử lý nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế.
aa

Hoạt động mua, bán nợ thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) là một nghiệp vụ quan trọng của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (viết tắt là Công ty Quản lý tài sản - VAMC) góp phần xử lý nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện các hoạt động này đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ, đặc biệt là về cơ chế, chính sách cũng như tăng cường nguồn lực cho VAMC để hoạt động này hiệu quả hơn nữa.

1. Tổng quan hoạt động mua, bán nợ thanh toán bằng TPĐB

VAMC được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam; Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của Hệ thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam”; Quyết định số 1459/QĐ-NHNN ngày 27/6/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về việc thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quản lý tài sản của tổ chức tín dụng Việt Nam.

Để thực hiện sứ mệnh xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế, hoạt động chính của VAMC là mua, bán, xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) với các phương thức thanh toán bằng TPĐB và theo giá trị thị trường. Trong những năm đầu mới thành lập, trên cơ sở yêu cầu thực tiễn phải đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế, VAMC chủ yếu thực hiện mua, bán, xử lý nợ xấu bằng TPĐB - đây là hoạt động chưa có tiền lệ tại Việt Nam và trên thế giới. Từ năm 2017, khi quy mô mua, bán nợ bằng TPĐB của các TCTD đã giảm đáng kể do hiệu quả của việc xử lý nợ xấu, VAMC bắt đầu triển khai mua, bán nợ theo giá trị thị trường. Tuy nhiên, hoạt động mua, bán nợ thanh toán bằng TPĐB vẫn là nghiệp vụ quan trọng, mang tính đặc thù tại VAMC.

VAMC thực hiện mua, bán nợ bằng TPĐB căn cứ quy định tại Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của Thống đốc NHNN và căn cứ các quy định nội bộ của VAMC, đảm bảo nguyên tắc tuân thủ đúng quy định của pháp luật, công khai, minh bạch về mua, bán, xử lý nợ xấu.

Điều kiện các khoản nợ xấu được VAMC mua bằng TPĐB được quy định tại Điều 16, Thông tư số 19/2013/TT-NHNN như sau:

“1. Khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua bằng trái phiếu đặc biệt khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: a) Là khoản nợ xấu theo quy định tại khoản 7a Điều 3 Thông tư này; b) Khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm; c) Khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ, trong đó phải đảm bảo tối thiểu các yêu cầu sau: (i) Hợp đồng tín dụng hoặc thỏa thuận cho vay, hợp đồng ủy thác cấp tín dụng, hợp đồng mua bán nợ, hợp đồng mua, ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp, hợp đồng bảo đảm phải thể hiện rõ các quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng, trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay, bên bảo đảm, bên có nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng; (ii) Khoản nợ xấu chưa dùng để bảo đảm nghĩa vụ của tổ chức tín dụng; (iii) Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật tại thời điểm mua, bán nợ. Công ty Quản lý tài sản căn cứ quy định của pháp luật liên quan để xác định khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ; d) Khách hàng vay còn tồn tại; đ) Giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu hoặc các khoản nợ xấu của một khách hàng vay hoặc các khoản nợ xấu của một nhóm khách hàng vay theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Thông tư này vào thời điểm bán nợ không thấp hơn 3 tỉ đồng đối với nhóm khách hàng vay và khách hàng vay là tổ chức; không thấp hơn 1 tỉ đồng đối với khách hàng vay là cá nhân hoặc mức khác do Thống đốc NHNN quyết định”.

2. Kết quả mua, bán, xử lý nợ bằng TPĐB của VAMC từ năm 2013 đến nay

Giai đoạn 2013 - 2016: Giai đoạn này, VAMC chỉ tập trung vào hoạt động mua nợ TPĐB nhằm mục tiêu giảm nhanh tỉ lệ nợ xấu của toàn ngành Ngân hàng xuống dưới 3%. Lũy kế từ năm 2013 - 2016, VAMC đã mua nợ TPĐB của các TCTD với dư nợ gốc nội bảng đạt 275.565 tỉ đồng, tương ứng với 245.878 tỉ đồng mệnh giá TPĐB được phát hành. Đây là giai đoạn nhu cầu bán nợ TPĐB của các TCTD tăng cao nhất và VAMC đã tập trung toàn lực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mua nợ TPĐB được giao. Kết quả thu hồi nợ lũy kế giai đoạn này đạt 51.016 tỉ đồng.

Giai đoạn từ năm 2017 đến nay: Sau khi đã góp phần quan trọng trong việc đưa tỉ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống ngân hàng xuống dưới 3% vào cuối năm 2016, từ năm 2017, hoạt động của VAMC được định hướng chuyển đổi trọng tâm sang mua, bán, xử lý nợ theo giá trị thị trường. Tuy nhiên, vai trò của hoạt động mua, bán, xử lý nợ bằng TPĐB vẫn hết sức cần thiết trong bối cảnh tình hình kinh tế và hoạt động của hệ thống các TCTD diễn biến phức tạp và gặp nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh chịu sự tác động toàn diện của đại dịch Covid-19.

Trong giai đoạn này, từ năm 2017 - 2022, lũy kế mua nợ thanh toán bằng TPĐB của VAMC đạt 136.677 tỉ đồng dư nợ gốc nội bảng, tương ứng với 133.039 tỉ đồng mệnh giá TPĐB được phát hành, kết quả đạt được bằng khoảng 50% so với giai đoạn năm 2013 - 2016. Giai đoạn 2017 đến nay cũng ghi dấu bước ngoặt trong quá trình mua, bán, xử lý nợ xấu của VAMC với sự ra đời của Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết số 42) có hiệu lực từ ngày 15/8/2017. Nghị quyết số 42 đã tạo ra một công cụ xử lý nợ xấu mạnh mẽ, hiệu quả hơn cho VAMC cũng như các TCTD. Minh chứng được thể hiện qua kết quả xử lý nợ giai đoạn 2017 - 2022 đạt 276.547 tỉ đồng dư nợ gốc (bao gồm các khoản nợ đã mua bằng TPĐB và theo giá trị thị trường) cao hơn nhiều so với kết quả đạt được giai đoạn 2013 - 2016 với 56.425 tỉ đồng dư nợ gốc được xử lý. Với những kết quả đạt được trong thời gian áp dụng Nghị quyết số 42, Quốc hội khóa 15 đã ban hành Nghị quyết số 63/2022/QH15 (Nghị quyết số 63) về việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42 đến hết ngày 31/12/2023. Kết quả thu hồi nợ giai đoạn này đạt 129.105 tỉ đồng đối với các khoản nợ đã mua bằng TPĐB (gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 2013 - 2016).

3. Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động mua, bán, xử lý nợ bằng TPĐB của VAMC

Trên cơ sở Nghị quyết số 42, VAMC và TCTD đã có những bước tiến lớn trong kết quả mua, bán và xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, thực tế triển khai thực hiện nhiệm vụ VAMC đã ghi nhận một số tồn tại, hạn chế và vướng mắc như sau:

Thứ nhất, một trong những điều kiện quan trọng nhất để VAMC và TCTD được quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) theo quy định tại Nghị quyết số 42 là tại Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ TSBĐ. Tuy nhiên, thực tế hồ sơ mua, bán nợ tại VAMC cho thấy, rất ít các hợp đồng bảo đảm giữa TCTD và khách hàng, bên bảo đảm có điều khoản này hoặc có thỏa thuận nhưng không rõ ràng về nội dung này. Vì vậy, việc triển khai thu giữ TSBĐ theo quy định tại Nghị quyết số 42 là còn nhiều hạn chế và khó khăn trong quá trình thực hiện.

Thứ hai, các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC có nhiều TSBĐ là bất động sản hình thành trong tương lai, các quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án đầu tư bất động sản, đồng nghĩa với việc bên bảo đảm không phải là chủ đầu tư của dự án. Vì vậy, khi khách hàng không hợp tác và vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì VAMC hoặc TCTD sẽ rất khó thực hiện được quyền thu giữ TSBĐ này. Đồng thời, việc chuyển nhượng, xử lý TSBĐ là các quyền tài sản cũng rất khó khăn.

Thứ ba, khó khăn của nền kinh tế trong thời gian qua, đặc biệt đại dịch Covid-19 gây tác động tiêu cực kéo dài đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, nguồn thu và nguồn tiền của khách hàng, các nhà đầu tư khiến việc xử lý các khoản nợ đã mua bằng TPĐB bị ảnh hưởng tiến độ cũng như hiệu quả xử lý, thu hồi nợ. Vì vậy, kết quả xử lý nợ từ các khoản nợ xấu đã mua bằng TPĐB của VAMC chưa đạt được như kỳ vọng.

Mặt khác, TSBĐ của các khoản nợ xấu VAMC đã mua phân tán nhiều nơi và đa phần đều là các khoản nợ khó xử lý, kéo dài, khách hàng chây ỳ, không hợp tác, chủ TSBĐ chống đối, TSBĐ xuống cấp, giá trị thực tế của TSBĐ đa phần thấp hơn hoặc thậm chí thấp hơn rất nhiều so với giá trị định giá tại hợp đồng bảo đảm. Do đó, việc xử lý nợ của VAMC và TCTD rất khó khăn, kết quả thu hồi nợ không cao.

Thứ tư, về mặt pháp lý, VAMC là chủ nợ của các khoản nợ xấu đã mua và cũng đã chủ động triển khai xử lý nợ ngay sau khi mua nợ. Tuy nhiên, kết quả xử lý, thu hồi nợ thực tế chủ yếu vẫn do các TCTD thực hiện thông qua việc nhận ủy quyền từ VAMC (như cơ cấu lại nợ, xử lý TSBĐ, khởi kiện, thi hành án, bán nợ…).

VAMC thực hiện mua nợ bằng TPĐB theo quy định tại Nghị định số 53/2013/NĐ-CP và Thông tư số 19. Theo đó, VAMC mua nợ căn cứ trên bản sao hồ sơ và số liệu do TCTD cung cấp và chịu trách nhiệm. Trong đó, một số số liệu VAMC không có thẩm quyền đánh giá tính chính xác và đầy đủ như số tiền dự phòng rủi ro cụ thể đã trích lập chưa thực hiện của khoản nợ xấu, tỉ lệ nợ xấu của TCTD… Các số liệu này được đánh giá là sẽ ảnh hưởng đến việc xác định điều kiện bán nợ thanh toán bằng TPĐB của TCTD, mệnh giá TPĐB do VAMC phát hành, từ đó tác động đến việc cho vay tái cấp vốn của NHNN trên cơ sở TPĐB. Tuy nhiên, đây là các nội dung nằm ngoài thẩm quyền đánh giá và xác định của VAMC.

Thứ năm, hiện nay, danh mục TSBĐ do VAMC quản lý được cập nhật thường xuyên trên Trang thông tin điện tử của VAMC để các nhà đầu tư quan tâm có thể dễ dàng tìm kiếm khi có nhu cầu. Tuy nhiên, do mục tiêu xử lý nợ và quan điểm hoạt động riêng của mỗi TCTD mà một số TCTD muốn được chủ động trong việc xử lý nợ, xử lý TSBĐ của các khoản nợ đã bán cho VAMC. Vì vậy, việc phối hợp xử lý nợ giữa TCTD với VAMC cũng như việc tiếp cận và làm việc với TCTD, bên bảo đảm của các nhà đầu tư quan tâm đến danh mục TSBĐ VAMC đang quản lý còn hạn chế.

Thứ sáu, sau khi mua nợ TPĐB, VAMC ủy quyền cho TCTD thực hiện một số hoạt động. Định kỳ hằng tháng, các TCTD sẽ báo cáo kết quả hoạt động ủy quyền theo Công văn số 1059/VAMC-BAN2 ngày 10/8/2016 cho VAMC. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc báo cáo của một số TCTD chưa được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn và chưa đảm bảo chất lượng báo cáo. Đồng thời, báo cáo mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin và số liệu mà không có hồ sơ, tài liệu chứng minh kèm theo. Vì vậy, VAMC sẽ không thể cung cấp kịp thời hồ sơ khi có yêu cầu của các đơn vị thanh tra, kiểm toán liên quan đến hoạt động ủy quyền. Mặc dù vậy, cũng phải xét đến số lượng khoản nợ, khách hàng và TSBĐ của khoản nợ mà VAMC đã mua bằng TPĐB hiện nay rất lớn. Do đó, việc TCTD có thể cung cấp được đầy đủ, kịp thời các hồ sơ, chứng từ liên quan đến việc xử lý nợ thông qua việc thực hiện ủy quyền là khó khăn với số lượng hồ sơ phát sinh tương đối lớn.

Thứ bảy, để tạo điều kiện cho các TCTD chủ động trong việc khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án, cơ quan Thi hành án, hầu hết các hoạt động này được VAMC ủy quyền cho các TCTD. Tuy nhiên, do TCTD thực hiện khởi kiện, tham gia tố tụng theo ủy quyền của VAMC nên các cơ quan này đều gửi thông báo, quyết định và các văn bản liên quan bản gốc cho VAMC mà không đồng thời gửi cho TCTD thực hiện ủy quyền. Trong khi đó, để tham gia tố tụng, nhận tiền tạm ứng án phí hay thi hành án…, thì Tòa án và cơ quan Thi hành án lại yêu cầu TCTD xuất trình bản gốc các văn bản nêu trên. Vì vậy, TCTD gặp nhiều khó khăn trong quá trình giải quyết vụ việc, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý nợ.

4. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả mua, bán nợ bằng TPĐB

Thứ nhất, đề nghị Chính phủ, NHNN cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, bổ sung công cụ hỗ trợ, chế tài riêng cho VAMC trong quá trình xử lý nợ. Hiện nay, ngoài các quy định chung tại Nghị định số 53/2013/NĐ-CP và Thông tư số 19/2013/TT-NHNN về mua, bán, xử lý nợ xấu tại VAMC thì chỉ có Nghị quyết số 42 bổ sung thêm hành lang pháp lý cho VAMC trong việc xử lý nợ xấu. Nghị quyết này có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2023 và hiện nay NHNN đang xây dựng dự thảo sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng, trong đó có kế thừa một số quy định hiện hành tại Nghị quyết số 42. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, việc triển khai thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Nghị quyết số 42 hiện nay vẫn rất khó thực hiện hoặc thực hiện một cách hạn chế do đa phần hồ sơ khách hàng, khoản nợ không đáp ứng được điều kiện theo quy định (về điều khoản thu giữ).

Thứ hai, trong những năm gần đây, nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt đại dịch Covid-19 kéo dài đã ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế cũng như lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm, lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19. Năm 2023, NHNN tiếp tục ban hành Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Những động thái này của NHNN đã trực tiếp hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho các TCTD cũng như khách hàng vay vốn. Tuy nhiên, trong thời gian áp dụng các Thông tư này cho thấy, nhu cầu bán nợ thanh toán bằng TPĐB của các TCTD giảm mạnh. Bên cạnh đó, theo quy định, từ năm 2018 đến nay, VAMC chỉ được mua nợ bằng TPĐB của các TCTD yếu kém, có thể gây rủi ro cho hệ thống, các TCTD có tỉ lệ nợ xấu lớn hơn 3%. Do những quy định nêu trên nên trong vài năm gần đây, nhu cầu bán nợ TPĐB của TCTD đều sụt giảm. Năm 2022, VAMC đã không hoàn thành kế hoạch mua nợ TPĐB được NHNN phê duyệt. Vì vậy, để đảm bảo nguồn hàng mua nợ TPĐB cũng như góp phần giảm tỉ lệ nợ xấu của ngành Ngân hàng, đề xuất Chính phủ, NHNN xem xét phê duyệt cho VAMC có thể mua các khoản nợ xấu đủ điều kiện của các TCTD có tỉ lệ nợ xấu từ 3% trở xuống khi TCTD có nhu cầu bán nợ để giảm tỉ lệ nợ xấu.

Thứ ba, kiện toàn cơ cấu tổ chức và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hiện nay, do yêu cầu công việc tại VAMC ngày càng đi vào chiều sâu nên cần có chính sách đãi ngộ tốt để thu hút các chuyên gia trong các lĩnh vực bất động sản, tái cơ cấu doanh nghiệp...; đồng thời, VAMC cần tăng cường đào tạo nghiệp vụ mua, bán, xử lý nợ, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xử lý nợ cho các cán bộ, tạo cơ hội để cán bộ, đặc biệt là cán bộ trẻ có thể tích lũy kinh nghiệm xử lý nợ thực tế.


Thứ tư, đẩy mạnh và tập trung hơn nữa triển khai hoạt động kiểm tra ủy quyền tại các TCTD, kiểm tra thực tế TSBĐ. Qua quá trình kiểm tra hoạt động ủy quyền tại các TCTD thời gian qua cho thấy phát sinh nhiều tồn tại trong quá trình mua, bán nợ, thực hiện ủy quyền xử lý nợ và công tác báo cáo của các TCTD. Vì vậy, trong thời gian tới, việc kiểm tra hoạt động ủy quyền của VAMC cần được triển khai mạnh mẽ và mở rộng phạm vi hơn để phối hợp với các TCTD phát hiện các sai sót, xử lý những vướng mắc, khó khăn trong quá trình xử lý nợ.

Thứ năm, đối với các trường hợp TCTD nhận ủy quyền của VAMC để trực tiếp thực hiện khởi kiện, tham gia tố tụng, thi hành án, VAMC có công văn gửi Tổng cục Thi hành án, Tòa án Nhân dân các cấp hoặc tại các buổi làm việc liên ngành về việc giải quyết khó khăn, vướng mắc trong quá trình khởi kiện, thi hành án; VAMC đề nghị các cơ quan nêu trên phối hợp, hỗ trợ để đồng thời gửi các văn bản, quyết định liên quan đến các vụ án tới cả VAMC và TCTD nhận ủy quyền, để TCTD có căn cứ và hồ sơ gốc nhằm thuận lợi trong quá trình xử lý vụ việc.

Thứ sáu, đối với các trường hợp TCTD thực hiện cơ cấu lại nợ, xử lý TSBĐ theo ủy quyền của VAMC, VAMC cần yêu cầu TCTD cung cấp các văn bản, hồ sơ kèm theo, bên cạnh việc báo cáo số liệu định kỳ hằng tháng như hiện nay.

Thứ bảy, bên cạnh việc mua nợ thì việc xử lý nợ cũng là nhiệm vụ trọng tâm của VAMC. Vì vậy, sau khi mua nợ, các Ban nghiệp vụ VAMC cần rà soát, đánh giá các khách hàng, khoản nợ đã mua, làm việc với TCTD về kế hoạch xử lý nợ để có phương án xử lý nợ phù hợp, hiệu quả, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với TCTD để nâng cao kết quả xử lý, thu hồi nợ.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.

2. Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam”.

3. Quyết định số 1459/QĐ-NHNN ngày 27/6/2013 của Thống đốc NHNN về việc thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của tổ chức tín dụng Việt Nam.

4. Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của Thống đốc NHNN quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.

5. Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

6. Báo cáo đánh giá quá trình hình thành và phát triển của VAMC từ năm 2013 đến nay.

7. Báo cáo hoạt động mua nợ thanh toán bằng TPĐB của VAMC từ năm 2013 đến nay.

8. Một số tài liệu tham khảo khác.


ThS. Hà Tiến Quân

Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng