Bảo hiểm nông nghiệp: "Lá chắn" tài chính trước rủi ro thiên tai

Chính sách
Nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù Việt Nam là một quốc gia dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, nhưng khái niệm bảo hiểm nông nghiệp vẫn còn khá xa lạ đối với người dân.
aa

Nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù Việt Nam là một quốc gia dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, nhưng khái niệm bảo hiểm nông nghiệp vẫn còn khá xa lạ đối với người dân.


Sản xuất nông nghiệp chịu nhiều rủi ro từ thiên tai nhưng chưa tiếp cận nhiều đến bảo hiểm


Theo dự đoán của Viện Nghiên cứu tác động khí hậu Potsdam (Đức), Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi thiên tai, với dự báo vào cuối thế kỷ này, các vùng đồng bằng trọng yếu sẽ phải đối mặt với tình trạng lũ lụt nghiêm trọng, ảnh hưởng tới 12% dân số và gây thất thoát 10% GDP. Trong khi đó, nông nghiệp là một trong những trụ cột của nền kinh tế Việt Nam, đem lại sinh kế cho hơn 60% dân số nông thôn, chiếm đến 30% lực lượng lao động trong cả nước và đóng góp gần 12% vào GDP.

Trong tháng 9/2024, Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề từ bão Yagi (bão số 3), tình trạng mưa lũ kéo dài ở nhiều địa phương tại miền Bắc gây thiệt hại lớn về sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Theo Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), qua rà soát, thống kê thiệt hại, tính đến hết ngày 12/9/2024, bão số 3 và mưa lũ đã gây ảnh hưởng trên diện rộng về sản xuất nông nghiệp tại các tỉnh miền Bắc. Cụ thể, 202.094 ha lúa và 39.298 ha hoa màu bị ngập úng, thiệt hại; 22.288 ha cây ăn quả bị hư hại; 1.848 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng, cuốn trôi; 4.594 gia súc, 1.786.872 gia cầm bị chết...

Để phòng ngừa tổn thất do thiên tai và những rủi ro khác, nhiều nông dân, doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp đã lựa chọn bảo hiểm nông nghiệp như một “tấm lưới” tài chính an toàn.

Vừa ký hợp đồng mua bảo hiểm nông nghiệp cho 150 ha rừng keo với mức phí 2,5 triệu đồng/ha/năm, ông Nguyễn Hữu Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Hiệp Thuận (Quảng Nam) chia sẻ, địa phương thường xuyên xảy ra bão lớn, năm 2020, một cơn bão đã gây đổ rừng keo, chủ rừng phải cho người dân khai thác lấy đất trồng lại, nên việc mua bảo hiểm nông nghiệp là giải pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro cho doanh nghiệp. Mức phí cho hợp đồng bảo hiểm không lớn trong chi phí sản xuất nhưng hỗ trợ tối đa được 75% giá trị. Bên cạnh đó, Hợp tác xã Hiệp Thuận đã lập quỹ hỗ trợ rủi ro, theo đó, mỗi chủ rừng sẽ đóng góp từ 200.000 - 400.000 đồng/ha. Trong trường hợp gặp thiên tai, ngã, đổ, hư hại cây trồng từ 30% sẽ được chi trả gấp 10 lần số tiền đã đóng để tái sản xuất.

Thực tế cho thấy, bảo hiểm nông nghiệp đóng vai trò thiết yếu giúp ổn định nền kinh tế Việt Nam qua việc hỗ trợ người nông dân khi bị thiên tai, rủi ro; giảm thiểu biến động giá trên thị trường lương thực; ngăn ngừa lạm phát và bất ổn kinh tế.

Tuy nhiên, hiện nay, tỉ lệ tham gia bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam vẫn còn ít vì sự thiếu liên kết giữa các tổ chức tín dụng, người dân và doanh nghiệp bảo hiểm. Người dân chưa có các khoản tài chính dành cho chi phí dự phòng và quản lý rủi ro, sản xuất còn manh mún. Trong khi đó, rủi ro trong hoạt động sản xuất nông nghiệp cao nên có ít doanh nghiệp bảo hiểm tham gia vào mảng này. Các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp trên thị trường mới dừng ở thí điểm theo đối tượng và khu vực.

Dưới góc nhìn của doanh nghiệp bảo hiểm, ông Nguyễn Ngọc Anh, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Bảo Minh cho biết, việc chào bán sản phẩm khó khăn do nông dân chưa có thói quen mua bảo hiểm vì tâm lý chung của nông dân khi mua bảo hiểm là nếu có thiệt hại xảy ra phải được bồi thường, tuy nhiên, nguyên tắc của ngành bảo hiểm là không bao trùm hết các rủi ro nên không phải trường hợp nào cũng được bồi thường; việc xác định giá trị bồi thường dựa theo đánh giá thiệt hại phải mất nhiều thời gian cũng khiến người mua ngần ngại.

Thông thường, mỗi khi gặp sự cố thiên tai hay dịch bệnh, nông dân thường trông chờ các khoản hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và các nguồn tài chính khác hơn là bảo hiểm. Hơn nữa, bản thân doanh nghiệp bảo hiểm cũng ít có sản phẩm liên quan đến ngành nông nghiệp vì tính chất rủi ro cao, nguy cơ thua lỗ lớn do chi phí nhiều (chi phí quản lý, truyền thông, triển khai nghiệp vụ mới)…


Nhân viên bảo hiểm giám định thiệt hại sau mưa bão để bồi thường cho khách hàng


Bàn về giải pháp để gia tăng “lá chắn” của bảo hiểm nông nghiệp, ông Nguyễn Hữu Tự Trí, Giám đốc Igloo Việt Nam - Công ty công nghệ bảo hiểm đề xuất, cần có sự chung tay của các bên liên quan, các cấp chính quyền, doanh nghiệp và người nông dân để đầu tư cho những sản phẩm bảo hiểm kỹ thuật số. Một mặt, các khoản trợ cấp của Chính phủ và các khung chính sách có thể khuyến khích áp dụng bảo hiểm, mặt khác, sự đổi mới của khu vực tư nhân có thể đem lại những giải pháp dễ dàng tiếp cận, tích hợp công nghệ. Về phía người nông dân, khi nhận thức được lợi ích lâu dài của hình thức bảo hiểm này sẽ tích cực tham gia để bảo vệ mùa màng và nguồn thu cho chính mình.

Ngoài ra, cần có thêm chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp bảo hiểm để tăng động lực tham gia chương trình bảo hiểm nông nghiệp. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2022/QĐ-TTg ngày 09/5/2022 về thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp, trong đó cho phép dùng ngân sách hỗ trợ cho bà con nông dân đến 20% phí bảo hiểm, song Bộ Tài chính cần có hướng dẫn cụ thể về quy tắc, quy trình bảo hiểm để triển khai.

Tuy nhiên, trong điều kiện có hạn, việc hỗ trợ phí cho bảo hiểm nông nghiệp tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến các cân đối lớn. Việc hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp cần phải có thời hạn cụ thể và giảm dần mức hỗ trợ theo thời gian chứ không nên hỗ trợ trong một thời gian quá dài.

Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về quy mô, mức độ tổn thất do thiên tai, dịch bệnh xảy ra làm cơ sở thống nhất cho việc xác định tổn thất và thiệt hại để bồi thường nhằm bảo đảm tính minh bạch trong quá trình xác định thiệt hại; cần quy định cơ quan có trách nhiệm giám sát việc thanh toán, chi trả bồi thường đối với người nông dân bị tổn thất, để việc nhận tiền được đúng hạn, kịp thời tái đầu tư, sản xuất.


Hương Giang
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xem thêm
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô