Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Ngân hàng Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
Ngày 06/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Đây là một sự kiện pháp lý quan trọng để hình thành Ngân hàng Quốc gia Việt Nam trong một thể chế của ...
aa

Ngày 06/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Đây là một sự kiện pháp lý quan trọng để hình thành Ngân hàng Quốc gia Việt Nam trong một thể chế của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có nhiệm vụ phát hành giấy bạc, điều hòa sự lưu hành tiền tệ; huy động vốn của nhân dân, điều hành và mở rộng tín dụng để nâng cao sản xuất của nhân dân và phát triển kinh tế nhà nước; quản lý ngân quỹ quốc gia; quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài; quản lý kim dung bằng các thể lệ hành chính: thể lệ bằng vàng bạc, thể lệ về quỹ của các doanh nghiệp, quốc gia. Nói chung, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam làm những công việc để thi hành chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng và chính sách ngân hàng của Chính phủ. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tổ chức theo mô hình ở trung ương có Ngân hàng Quốc gia Trung ương. Ở mỗi liên khu, có một chi nhánh Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Mỗi tỉnh và thành phố có một chi nhánh Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngoài ra, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có thể mở chi nhánh ở trong nước hay ngoài nước. Tổng Giám đốc có quyền hạn và danh vị như một Bộ trưởng. Điều đó xác định rõ vị thế của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân quỹ quốc gia, vàng bạc. Nhiệm vụ, quyền hạn và mô hình tổ chức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam xác định rõ địa vị pháp lý của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là Ngân hàng Trung ương, đồng thời là một ngân hàng thương mại. Ngay từ khi ra đời, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã thực hiện đồng thời cả ba chức năng của cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, chức năng của Ngân hàng Trung ương và chức năng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương là thực thi chính sách tiền tệ, phát hành tiền và điều hòa lưu thông tiền tệ theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai (tháng 10/1951) về ngân hàng là: “Nắm vững hai việc chính là phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất" [1]. Đồng thời, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam còn thực hiện hoạt động của ngân hàng thương mại. Đó là, huy động vốn của nhân dân, điều hòa và mở rộng tín dụng để nâng cao sản xuất của nhân dân và phát triển kinh tế nhà nước.

Sắc lệnh 15-SL ngày 06/5/1951 là một sự kiện pháp lý trọng đại và một là bước ngoặt lịch sử hình thành Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với một vị thế đặc biệt là cơ quan của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương, đồng thời là ngân hàng thương mại và là kho bạc của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quá trình hình thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến cứu nước, thống nhất đất nước và phát triển kinh tế - xã hội.

Nhằm phát huy tốt hơn vai trò của ngân hàng trong bối cảnh thực tiễn của đất nước, ngày 26/10/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 171/CP đổi tên Ngân hàng Quốc gia Việt Nam thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy tổ chức Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Nghị định xác định rõ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm quản lý tiền tệ và tín dụng theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm bảo hoàn thành tốt các nhiệm vụ như: kế hoạch hóa điều hòa lưu thông tiền tệ; thu chi tiền cho ngân sách nhà nước; huy động vốn và cho vay; thanh toán trong nước và nước ngoài; quản lý và kinh doanh ngoại hối, kiểm tra bằng đồng tiền hoạt động kinh tế và tài chính của các xí nghiệp và tổ chức kinh tế.

Đây là một cơ sở pháp lý quan trọng chuyển đổi tên gọi, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam sang Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã kế thừa địa vị pháp lý của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Nhưng vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và tín dụng được xác định rõ hơn. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, và ngoại hối; kiểm tra bằng đồng tiền hoạt động kinh tế và tài chính của các xí nghiệp và tổ chức kinh tế. Chức năng của Ngân hàng Trung ương quy định cụ thể: đó là kế hoạch hóa điều hành lưu thông tiền tệ, thu chi tiền cho ngân sách nhà nước và kinh doanh ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng thực hiện chức năng của ngân hàng thương mại là huy động vốn và cho vay, thanh toán trong nước và ngoài nước. Như vậy, ngay từ khi hình thành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có địa vị pháp lý đặc biệt là cơ quan của Hội đồng Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương, đồng thời, là ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển và là Kho bạc của Nhà nước.

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam thống nhất thể chế chính trị, kinh tế. Ngành Ngân hàng cũng tiến hành hợp nhất hai miền. Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thành một hệ thống ngân hàng duy nhất trên toàn đất nước Việt Nam. Ngày 16/6/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 163/CP quy định cơ cấu tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghị định quy định Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm thống nhất quản lý công tác phát hành tiền, quản lý tiền mặt và điều hòa lưu thông tiền tệ, quản lý tín dụng và thanh toán trong nước, ngoài nước, quản lý ngoại hối và quản lý quỹ ngân sách nhà nước; đồng thời, là một tổ chức kinh tế thống nhất quản lý kinh doanh tín dụng, tiết kiệm, vàng bạc, kim khí, đá quý, ngoại tệ. Ngân hàng Nhà nước có tư cách pháp nhân và hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế toàn ngành. Ngân hàng Nhà nước quản lý tập trung thống nhất toàn ngành trong phạm vi cả nước về các mặt chính sách, pháp quy, kế hoạch và nghiệp vụ, tổ chức, biên chế, cán bộ, quỹ lương, các quỹ chuyên dùng và kinh phí hành chính, sự nghiệp. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nhà nước gồm có: các tổ chức quản lý kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Trung ương và hệ thống tổ chức Ngân hàng Nhà nước ở địa phương. Đây là cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước thành lập năm ngân hàng chuyên doanh trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đó là Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công nghiệp, Ngân hàng Thương nghiệp, Ngân hàng Ngoại thương và Quỹ tiết kiệm xã hội chủ nghĩa. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã có năm ngân hàng chuyên doanh để thực hiện nhiệm vụ của ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.

Đại hội VI của Đảng năm 1986 đề ra đường lối đổi mới. Trước hết, đổi mới cơ cấu kinh tế, xây dựng và củng cố quan hệ xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Về lĩnh vực ngân hàng, văn kiện Đại hội VI xác định rõ: “Bên cạnh nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế”.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, ngày 28/5/1986, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 65/HĐBT quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghị định quy định Ngân hàng Nhà nước là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, thực hiện chức năng quản lý nhà nước và kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, về ngoại hối, vàng bạc, kim khí quý và đá quý trong phạm vi cả nước. Hệ thống ngân hàng bao gồm Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên nghiệp trực thuộc Ngân hàng Nhà nước như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng phục vụ dân cư Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước chuyển giao nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước sang các ngân hàng chuyên nghiệp trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để tiến tới hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp.

Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới ngân hàng, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước, trong đó, quy định: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, được tổ chức thành hệ thống thống nhất trong cả nước gồm hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc”. Đây là một cơ sở pháp lý quan trọng để từng bước tách bạch chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước sang các ngân hàng chuyên doanh. Nhưng cơ cấu tổ chức của các ngân hàng chuyên doanh vẫn trực thuộc Ngân hàng Nhà nước.

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 6 khóa VI năm 1989 đã xác định rõ: “Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thị trường xã hội bao gồm cả thị trường tiêu dùng, thị trường vật tư, thị trường vốn và chứng khoán,… là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia lưu thông hàng hóa”. Thực hiện chủ trương của Đảng chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Hội đồng Bộ trưởng đã thực hiện đổi mới căn bản toàn diện hoạt động ngân hàng thông qua việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý ngân hàng cao hơn.

Ngày 24/5/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Lệnh số 36-LCT-HĐNN8 công bố Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Lệnh số 38-LCT/HĐNN8 công bố Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính. Đây là một sự kiện pháp lý trọng đại để chuyển đổi hệ thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp, tách bạch chức năng của Ngân hàng Trung ương và ngân hàng thương mại của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được xác định rõ là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng trong cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đồng thời chức năng của cơ quan quản lý nhà nước và chức năng của Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ và quyền hạn: tham gia xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các chính sách liên quan đến hoạt động tiền tệ; xây dựng dự án pháp luật về hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; thực hiện vai trò ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng. Áp dụng các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo sự tôn trọng các nguyên tắc hoạt động của các tổ chức tín dụng; tổ chức in đúc, bảo quản tiền dự trữ phát hành, thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền và quản lý lưu thông tiền tệ; nhận tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, của các cơ quan nước ngoài và tổ chức quốc tế; cho ngân sách nhà nước vay khi cần thiết; quản lý nhà nước về ngoại tệ và vàng, lập cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế; bảo quản dự trữ nhà nước về ngoại tệ và vàng; trực tiếp ký kết hoặc được ủy quyền ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và ngân hàng; đại diện cho Chính phủ tại các tổ chức tiền tệ, tín dụng, ngân hàng quốc tế; thanh tra các tổ chức tín dụng trong việc chấp hành pháp luật về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; tổ chức đào tạo nghiệp vụ, kỹ thuật ngân hàng. Từ cơ sở pháp lý này, hoạt động của Ngân hàng Nhà nước đã từng bước tiếp cận và phù hợp với những thông lệ quốc tế về Ngân hàng Trung ương.

Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính là cơ sở pháp lý quan trọng để hình thành hệ thống tổ chức tín dụng nhiều thành phần sở hữu, nhiều loại hình khác nhau trong một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần bao gồm: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng đầu tư và phát triển, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Mọi tổ chức thực hiện các nghiệp vụ của tổ chức tín dụng tại Việt Nam phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động.

Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc hình thành, quản trị và hoạt động của tổ chức tín dụng, đảm bảo khả năng cung ứng vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

Hai pháp lệnh ngân hàng là cơ sở pháp lý quan trọng để chuyển đổi cơ bản hoạt động ngân hàng sang cơ chế mới. Hệ thống ngân hàng được đổi mới căn bản và toàn diện, chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, tách bạch chức năng của Ngân hàng Trung ương và chức năng kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước là Ngân hàng Trung ương và là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng. Các tổ chức tín dụng là tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.

Tuy nhiên, hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành trong thời kỳ đầu thực hiện chủ trương của Đảng chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Do đó, trong quá trình thực hiện, còn một số hạn chế và bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn khách quan và không phù hợp với thể chế Hiến pháp Việt Nam năm 1992. Do vậy, để khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập, ngày 12/12/1997, Quốc hội đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 06/1997/QHX và Luật các Tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX.

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định rõ địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngân hàng Nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước. Trên cơ sở địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quy định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ngân hàng Nhà nước.

Luật các Tổ chức tín dụng là khuôn khổ pháp lý cơ bản cho việc thành lập, tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Luật các Tổ chức tín dụng quy định Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các tổ chức tín dụng và xác định các tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Các loại hình tổ chức tín dụng là các tổ chức tín dụng Việt Nam gồm: tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân, tổ chức tín dụng hợp tác; tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, chi nhánh của ngân hàng nước ngoài. Các loại hình tổ chức tín dụng chính là những thành phần kinh tế tham gia trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực hiện các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại.

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 đã tạo lập một khuôn khổ pháp lý cơ bản cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như các tổ chức tín dụng và thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới toàn diện hoạt động ngân hàng.

Thực hiện mở cửa hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã mở cửa và hội nhập quốc tế vào nền thế giới. Đặc biệt là khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu sắc và toàn diện với nền kinh tế thế giới. Điều đó, đòi hỏi tiếp tục hoàn thiện pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật ngân hàng nói riêng theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO. Đồng thời, việc chuyển đổi nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật ngân hàng cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .Vì vậy, ngày 16/6/2010, Quốc hội đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 và Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục xác định rõ địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

Luật các Tổ chức tín dụng quy định về việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng; việc thành lập tổ chức hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân. Như vậy, Luật các Tổ chức tín dụng không chỉ quy định về việc thành lập, hoạt động của tổ chức tín dụng mà còn quy định việc tái cơ cấu tổ chức tín dụng. Điều đó cũng phù hợp với các cam kết của Việt Nam với WTO và phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng là khuôn khổ pháp lý cơ bản về tổ chức và hoạt động ngân hàng Việt Nam. Sự phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý ngân hàng cho phù hợp thực tiễn khách quan. Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam gắn liền với việc hoàn thiện thể chế kinh tế xã hội của Nhà nước. Những chủ trương, chính sách của Đảng, quy luật kinh tế khách quan và công cuộc mở cửa hội nhập quốc tế là định hướng quan trọng cho quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp luật ngân hàng. Thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ thể chế ngân hàng, tạo lập cơ sở pháp lý cho ngân hàng Việt Nam phát triển vững chắc, hoạt động ngân hàng phù hợp hơn với những thông lệ và chuẩn mực quốc tế và phù hợp điều kiện riêng của Việt Nam. Pháp luật ngân hàng luôn xác định rõ vị thế của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng, đồng thời là Ngân hàng Trung ương của Việt Nam kể từ khi thành lập và phát triển ngân hàng. Khuôn khổ pháp luật ngân hàng ngày càng được hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và từng bước tiếp cận đến những thông lệ và chuẩn mực ngân hàng quốc tế.

__________

[1] Văn kiện Đảng toàn tập.

Vũ Thế Vậc
(Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế NHNN)


TCNH số 16/2020

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng