Việt Nam sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế

Nghiên cứu - Trao đổi
Sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế, kể từ khi Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995 và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của nước ta đạt khoảng 7%/năm.
aa

Tóm tắt: Sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế, kể từ khi Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995 và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của nước ta đạt khoảng 7%/năm. Bài viết nêu ra thực trạng và thành tựu Việt Nam đạt được kể từ khi hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong khu vực ASEAN, Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ và Trung Quốc; qua đó, đưa ra hàm ý chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới.

Từ khóa: Hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ thương mại, Việt Nam.

VIETNAM AFTER NEARLY 30 YEARS OF INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION


Abstract: After nearly 30 years of international economic integration since Vietnam joined the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) in 1995 and the United States of America (USA) normalized diplomatic relations with Vietnam, Vietnam's average economic growth rate is about 7% per year. The article outlines the current situation and achievements that Vietnam has achieved after 30 years of international economic integration, especially trade relations between Vietnam and countries in the ASEAN region, European Union, USA and China; thereby, providing policy implications to improve the effectiveness of Vietnam's international economic integration in the new context.

Keywords: International economic integration, trade relations, Vietnam.

1. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là quá trình gắn kết nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế thế giới thông qua các hiệp định thương mại để tạo nên khuôn khổ pháp lý chung cho sự phối hợp và điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.

Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế và thực hiện chính sách đa phương hóa trong quan hệ quốc tế, đất nước đã bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ. Tuy nhiên, chỉ đến năm 1995, khi Việt Nam gia nhập ASEAN và Hoa Kỳ tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mới thực sự sâu rộng.

Việc gia nhập ASEAN đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập. Dù tham gia muộn so với các nước ASEAN khác và khởi đầu từ nền kinh tế còn yếu, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế đến ngoại giao, góp phần nâng cao vị thế trong ASEAN và khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã giúp Việt Nam trở thành một quốc gia có tiếng nói trọng lượng trong việc giải quyết các vấn đề của khu vực, đặc biệt là những vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích quốc gia như Biển Đông, biến đổi khí hậu, quản lý nguồn nước sông Mekong, chống khủng bố, và phòng, chống buôn bán ma túy.

Nhờ vậy, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng lên, khẳng định vai trò tích cực và trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình, hợp tác phát triển và thúc đẩy tiến bộ toàn cầu.




Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế (Nguồn ảnh: Internet)


Từ thành công bước đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tiếp tục tham gia và chủ trì nhiều diễn đàn quan trọng của khu vực như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 - đánh dấu sự hội nhập toàn diện và đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.

Việt Nam đã tham gia sáng lập và thực hiện có trách nhiệm các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới quan trọng, bao gồm: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA). Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ trì và tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn, đồng thời hoàn thành các trọng trách quốc tế như là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và Chủ tịch ASEAN vào các nhiệm kỳ 2010 và 2020. Đặc biệt, Việt Nam đã chính thức tham gia các hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hiệp quốc, góp phần bảo đảm an ninh phi truyền thống và thúc đẩy sứ mệnh hòa bình toàn cầu.

Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn, cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nước ta cũng thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhờ môi trường chính trị ổn định và vị trí chiến lược ở Đông Nam Á. Đồng thời, Việt Nam đã đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống và đạt thặng dư thương mại, cho thấy sự phát triển bền vững và năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

2. Thành tựu Việt Nam đạt được sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế

Là nền kinh tế mở, Việt Nam luôn đề cao chủ nghĩa đa phương, tôn trọng luật pháp quốc tế, ủng hộ và tích cực tham gia nhiều sáng kiến hợp tác, liên kết kinh tế. Với sự tích cực, chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước, tổ chức quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, mang lại hiệu quả kinh tế tích cực. Trong đó, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nền kinh tế lớn trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc ngày càng phát triển và đạt nhiều kết quả tích cực. Tính chung 9 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ xuất siêu 20,79 tỉ USD. Và Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt khoảng 89,5 tỉ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt khoảng 105 tỉ USD1.

Trải qua gần ba thập niên kể từ ngày Việt Nam gia nhập ASEAN, Việt Nam đã cùng với các quốc gia trong khối ASEAN liên tục bứt phá, trở thành khu vực kinh tế năng động. Tỉ trọng kinh tế của Việt Nam trong tổng GDP của ASEAN đã tăng mạnh và tăng gần gấp đôi từ dưới 6% vào năm 2000 lên khoảng 12% năm 2023. Trong giai đoạn 2010 - 2021, thương mại giữa Việt Nam và ASEAN đã có sự tăng trưởng vượt bậc, trong đó xuất khẩu tăng từ 9,3 tỉ USD năm 2010 lên mức 29,1 tỉ USD vào năm 2021 và cán mốc 73 tỉ USD vào năm 20232. Trong 9 tháng năm 2024, xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt mức 27,33 tỉ USD, tăng 13,6%, tương ứng tăng 3,27 tỉ USD so với cùng kỳ năm trước và nhập khẩu đạt 34 tỉ USD, tăng 13%, tương ứng tăng 3,9 tỉ USD so với cùng kỳ năm trước3.

Nếu như gia nhập ASEAN đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các nước trong khu vực ASEAN thì việc đẩy mạnh quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với Hoa Kỳ đã giúp Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại với tất cả các nước phát triển trên thế giới. Nếu tính trong khối ASEAN, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Hoa Kỳ và ngược lại, Hoa Kỳ cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam, chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Từ khi Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995, quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Hoa Kỳ đã tăng 275 lần, từ 450 triệu USD năm 1995, tăng lên 124 tỉ USD vào năm 2023. Tính chung trong 9 tháng năm 2024, trị giá xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt trị giá 88,16 tỉ USD, tăng 25,6% (tương ứng tăng tới 17,96 tỉ USD) so với cùng kỳ năm trước và chiếm 29,4% trong tổng trị giá xuất khẩu của cả nước4. Hoa Kỳ hiện là nhà đầu tư nước ngoài đứng thứ 11/108 quốc gia đầu tư tại Việt Nam với tổng số 1.340 dự án, tổng số vốn đầu tư 11,8 tỉ USD. Ngược lại, Việt Nam có 230 dự án đầu tư tại Hoa Kỳ với tổng số vốn 1,3 tỉ USD. Trong đó có những tập đoàn lớn như: FPT, VinFast…5

Cùng với những kết quả ấn tượng trong quan hệ thương mại với các nước trong khối ASEAN, Hoa Kỳ, Việt Nam còn chú trọng hợp tác kinh tế với các quốc gia trong EU. Từ khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam là nước có kim ngạch xuất khẩu hàng đầu qua thị trường EU. Quan hệ thương mại Việt Nam - EU đã phát triển rất nhanh chóng và hiệu quả; kim ngạch hai chiều tăng hơn 12 lần từ mức 4,1 tỉ USD năm 2000 lên gần 50 tỉ USD năm 2020; trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng gần 13 lần từ 2,8 tỉ USD lên 35,1 tỉ USD năm 2020. Riêng 9 tháng năm 2024, xuất khẩu sang EU đạt 38,02 tỉ USD, tăng 17%, tương ứng tăng 5,51 tỉ USD so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong 9 tháng năm 2024 từ thị trường EU đạt mức 12,26 tỉ USD, tăng 10,6% (tương ứng tăng 1,18 tỉ USD)6.

Trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, Việt Nam đã ký kết các thỏa thuận quan trọng như Hiệp định Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Năm 2018, tổng kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Trung Quốc lần đầu tiên vượt mốc 100 tỉ USD. Kể từ đó, kim ngạch thương mại giữa hai nước không ngừng tăng, cụ thể: Năm 2019 đạt 111,86 tỉ USD, năm 2020 đạt 133,l tỉ USD và những năm đại dịch Covid-19 cũng đạt mức cao, với 165,88 tỉ USD năm 2021 và 175,56 tỉ USD năm 2022; năm 2023, tổng kim ngạch thương mại song phương đạt gần 171,2 tỉ USD, chiếm hơn 25% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu cả nước. Trong 9 tháng năm 2024, trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 44,39 tỉ USD, tăng 4,1%, tương ứng tăng 1,75 tỉ USD so với cùng kỳ năm trước. Tổng trị giá nhập khẩu từ thị trường này đạt 104,81 tỉ USD, đã tăng mạnh tới 32,4%, tương ứng tăng 25,63 tỉ USD so với cùng kỳ năm trước, chiếm 35% trong tổng trị giá nhập khẩu của cả nước7.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang trải qua những điều chỉnh sâu rộng và cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, đặc biệt là căng thẳng thương mại giữa Hòa Kỳ và Trung Quốc, quan hệ kinh tế và thương mại toàn cầu chịu tác động không nhỏ. Khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới để duy trì và mở rộng thị phần. Thương mại điện tử và công nghệ thông tin đã trở thành những công cụ chủ chốt trong thương mại quốc tế, nhưng đồng thời cũng mang lại những rủi ro về rò rỉ thông tin, đánh cắp công nghệ và mất an toàn dữ liệu. Cùng với đó, biến đổi khí hậu và dịch bệnh bùng phát đặt ra những thách thức nghiêm trọng trong thương mại quốc tế. Những thay đổi này có thể làm gián đoạn chuỗi cung ứng và ảnh hưởng đến năng lực sản xuất của các công ty...

Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn tồn tại một số “điểm nghẽn” trong quá trình phát triển như: Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế còn chưa nhanh; kết quả giải ngân vốn đầu tư công còn thấp; xuất khẩu ghi nhận mức tăng trưởng cao nhưng vẫn tồn tại nguy cơ khó đoán định; một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực còn gặp khó khăn, rào cản kỹ thuật cũng như điều tra chống bán phá giá; hệ thống chính sách luật pháp còn chưa hoàn thiện, cần thường xuyên rà soát, bổ sung để phù hợp với luật pháp quốc tế. Mặt khác, những biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội, môi trường, bất bình đẳng thu nhập, già hóa dân số đang tạo ra những thách thức không nhỏ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Những thách thức này đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ, nâng cao chất lượng tăng trưởng và khẳng định vị thế của mình trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến đổi không ngừng.

3. Một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới

Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn về hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, gắn liền với việc phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu mới. Tiếp tục thực hiện chủ trương xuyên suốt, nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam theo hướng thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia, dân tộc; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh là quan trọng nhất. Trên cơ sở này, Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo sát sao, đôn đốc các bộ, ngành và địa phương xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch hội nhập phù hợp với đặc thù và tiềm năng của từng khu vực.

Đồng thời, Chính phủ cùng các bộ, ngành cần chủ động và tích cực tham gia đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các quốc gia phát triển, đặc biệt là những nước thuộc khối EU. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh việc củng cố và mở rộng sự công nhận của các quốc gia về Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam trên con đường hội nhập sâu rộng và bền vững.

Thứ hai, tập trung vào việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, đặt khoa học và công nghệ cùng với đổi mới sáng tạo, làm động lực chính để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn. Mục tiêu là nâng cao tính độc lập, tự chủ và tự cường của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Song song với việc duy trì và phát triển các thị trường truyền thống, cần chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường mới cho hàng hóa, dịch vụ và lao động Việt Nam, đặc biệt hướng đến các quốc gia thuộc EU và nhóm các nước phát triển.

Việt Nam cần khai thác hiệu quả các nguồn lực trong nước, bao gồm tài nguyên và lao động, đồng thời tận dụng nguồn lực bên ngoài như vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý, để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, hiệu quả. Cùng với đó, tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm phù hợp với các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết.

Thứ ba,
các cơ quan lập pháp cần tiếp tục nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách còn bất cập và vướng mắc, nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn và triển khai hiệu quả các văn bản luật trong thực tiễn. Mục tiêu là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện của đất nước.

Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản luật theo thẩm quyền, bảo đảm phù hợp với những cam kết quốc tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến các cam kết trong các FTA như CPTPP, RCEP, EVFTA và EVIPA… để tạo ra một khung pháp lý thuận lợi, hỗ trợ cho sự phát triển bền vững và tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Tích cực cùng các nước thúc đẩy đàm phán, ký kết, phê chuẩn và thực hiện các thỏa thuận FTA đơn phương; tiến hành đàm phán các FTA song phương thế hệ mới với các nước, nhất là với các đối tác thương mại lớn.

Thứ tư, đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Chú trọng phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả cải cách hành chính hướng đến nền xây dựng nền hành chính kiến tạo, quản trị hiện đại, lấy người dân và doanh nghiệp là đối tượng phục vụ chính. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi tối đa để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

Thứ năm, tăng cường thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng xanh. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm thu hút FDI vào các lĩnh vực công nghiệp bán dẫn, công nghệ trí tuệ nhân tạo, Fintech, thực tế ảo, Blockchain. Đồng thời, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài; tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và hỗ trợ cho các dự án đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài theo hướng minh bạch, hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.


1 Tổng cục Thống kê (2024), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2024. https://www.gso.gov.vn/bai-top/2024/10/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iii-va-9-thang-nam-2024

2 Thông tấn xã Việt Nam (2023), Quan hệ kinh tế -thương mại Việt Nam - ASEAN phát triển vượt bậc. https://www.vietnamplus.vn/quan-he-kinh-te-thuong-mai-viet-nam-asean-phat-trien-vuot-bac-post885832.vnp
3 Tổng cục Hải quan Việt Nam (2024), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 9 và 9 tháng năm 2024. https://www.customs.gov.vn/index.jsp?pageId=2&aid=207043&cid=25
4 Tổng cục Hải quan Việt Nam (2024), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 9 và 9 tháng năm 2024.
5 Báo Thanh tra (2024), Hoa Kỳ có khoảng 1.340 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn trên 11,8 tỷ USD, https://thanhtra.com.vn/kinh-te/dau-tu/hoa-ky-co-khoang-1-340-du-an-dau-tu-tai-viet-nam-voi-tong-von-tren-11-8-ty-usd-231875.html
6 Tổng cục Hải quan Việt Nam (2024), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 9 và 9 tháng năm 2024.
7 Tổng cục Hải quan Việt Nam (2024), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 9 và 9 tháng năm 2024.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Báo Thanh tra (2024), Hoa Kỳ có khoảng 1.340 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn trên 11,8 tỷ USD, https://thanhtra.com.vn/kinh-te/dau-tu/hoa-ky-co-khoang-1-340-du-an-dau-tu-tai-viet-nam-voi-tong-von-tren-11-8-ty-usd-231875.html
2. Học viện Ngoại giao Việt Nam: Giáo trình kinh tế đối ngoại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.
3. Quỳnh Trung, “30 năm hội nhập của Việt Nam”, Báo Tuổi trẻ.
4, Thông tấn xã Việt Nam (2023), Quan hệ kinh tế -thương mại Việt Nam - ASEAN phát triển vượt bậc. https://www.vietnamplus.vn/quan-he-kinh-te-thuong-mai-viet-nam-asean-phat-trien-vuot-bac-post885832.vnp
5. Tổng cục Hải quan Việt Nam (2024), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 9 và 9 tháng năm 2024
6. Tổng cục Thống kê (2024), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2024. https://www.gso.gov.vn/bai-top/2024/10/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iii-va-9-thang-nam-2024

Phạm Ngọc Hòa
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đồng Tháp
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng