Vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc chuyển đổi số - áp dụng thực tiễn tại Vietcombank

Công nghệ & ngân hàng số
Những năm gần đây, việc thực hiện chuyển đổi số bước đầu đem lại một số kết quả nhất định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và từng ngành, lĩnh vực nói riêng. Đại hội XIII của Đảng đã đề cập nội dung chuyển đổi số là một tất yếu khách quan và có lộ trình, bước đi thích hợp.
aa

Những năm gần đây, việc thực hiện chuyển đổi số bước đầu đem lại một số kết quả nhất định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và từng ngành, lĩnh vực nói riêng. Đại hội XIII của Đảng đã đề cập nội dung chuyển đổi số là một tất yếu khách quan và có lộ trình, bước đi thích hợp.

Đường lối, chủ trương đúng đắn cũng như lộ trình đề ra phù hợp của Đảng ta đã thúc đẩy chuyển đổi số trong hầu hết các mặt của đời sống xã hội, qua đó giúp cho đất nước có những bước tiến vững vàng, mạnh mẽ ngay trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Các doanh nghiệp, trong đó có Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã vận dụng sáng tạo các đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn, bước đầu gặt hái được các kết quả khả quan trong công cuộc chuyển đổi số, tạo ra các động lực phát triển mới, các cơ hội mới đầy hứa hẹn mà chưa từng có tiền lệ nhờ vào ứng dụng thực tiễn của chuyển đổi số.

Bối cảnh thế giới và Việt Nam trong công cuộc chuyển đổi số

Thế giới đương đại thường xuyên xảy ra những chuyển biến lớn với nhiều sự kiện diễn ra một cách nhanh chóng, vừa mang đến cho chúng ta những thời cơ, vận hội và thắp sáng những hi vọng tương lai, lại vừa đặt ra trước mắt những nguy cơ, thách thức. Thế giới ngày một xích lại gần nhau hơn. Cả thế giới là một thị trường; hàng tỷ người ở mọi vùng miền trên trái đất có thể cùng xem một trận bóng đá, cùng thưởng thức những chương trình văn hóa nghệ thuật, cùng theo dõi những sự kiện trọng đại đang diễn ra trên khắp các châu lục. Với tác động của khoa học công nghệ, thế giới như được phẳng ra, những khoảng cách về không gian đang thu hẹp lại bởi giao thông đa phương tiện hết sức nhanh chóng, thuận lợi và thông tin liên lạc ngày càng dễ dàng, thông suốt. Các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng cho con người ngày càng thông minh hơn, đi trước và hướng dẫn cảm thụ tiêu dùng của con người.


Nhưng cũng có mặt khác của thế giới rất đáng lo ngại. Sự chuyển dịch quyền lực và thay đổi chiến lược trong ngoại giao của các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga đã làm thay đổi sâu, rộng toàn bộ mối quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới cả về chính trị, quân sự và kinh tế. Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày càng chịu tác động nghiêm trọng, đó là khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, biến đổi khí hậu hủy hoại môi trường và hệ sinh thái; đặc biệt là dịch bệnh và đói nghèo ngày một diễn ra trầm trọng hơn, các hình thái mới về an ninh của các quốc gia như an ninh môi trường, an ninh lương thực hay an ninh mạng đang ngày càng ảnh hưởng lên xã hội một cách rõ rệt.

Với tiến trình toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam cũng không đứng ngoài phạm vi ảnh hưởng của những diễn biến trên thế giới. Chúng ta là một nước đang phát triển, do đó cần nắm bắt cơ hội, cũng như lường trước các thách thức, khó khăn để có những thay đổi phù hợp với bối cảnh chung của thế giới.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và dịch bệnh Covid-19 đang là vấn đề mang tính thời sự mà các quốc gia cũng như Việt Nam hiện phải đối mặt hằng ngày, nó tác động toàn diện cả về kinh tế và xã hội. Đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi thói quen giao tiếp xã hội, thay đổi cách thức vận hành của nền kinh tế trên mỗi quốc gia, trong khi đó, các thành tựu, sản phẩm của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang được ứng dụng ngày một rộng rãi và hiệu quả để khắc phục chính những vấn đề nảy sinh do đại dịch này. Không chỉ các chính phủ, người dân cần thay đổi để thích nghi với tình hình mới, mà các doanh nghiệp - những chủ thể quan trọng của nền kinh tế - cũng đang từng ngày phải thay đổi để thích nghi với tình hình mới, với các “trạng thái bình thường mới” để giúp nâng cao tính cạnh tranh, nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn, thiết thực hơn.

Nhu cầu chuyển đổi số với từng quốc gia và vai trò với mỗi doanh nghiệp

Trong những năm gần đây, bên cạnh các chủ đề xoay quanh “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” thì các vấn đề như “chính phủ điện tử”, “chuyển đổi số”, “kinh tế số”, “xã hội số” cũng nổi lên như một xu thế tất yếu mà mỗi chính phủ cũng như mỗi doanh nghiệp đều đang đưa ra như những mục tiêu chiến lược trong lộ trình phát triển.

Tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 được mỗi người trong chúng ta cảm nhận rất rõ; nhiều công ty, doanh nghiệp phải giải thể, người lao động mất việc làm, các thói quen cũ kỹ từ trước đã không còn và không thể duy trì. Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tiêu cực, đại dịch này cũng tạo ra mặt tích cực, nó cũng chính là động lực để các tổ chức, doanh nghiệp thúc đẩy sự thay đổi để thích nghi, thúc đẩy động lực tăng trưởng để vừa sẵn sàng đối mặt với đại dịch, với các trạng thái “bình thường mới”, nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu phát triển chung. Đúng như nhận xét, phân tích của rất nhiều chuyên gia trên thế giới: “Trong bất kỳ cuộc khủng hoảng nào cũng có cơ hội; khủng hoảng càng mạnh, cơ hội càng lớn”.

Để nắm bắt cơ hội trong khủng hoảng, các quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp cũng như những công dân, thành viên trong mỗi đơn vị phải sẵn sàng thích nghi, sẵn sàng học hỏi và thay đổi, đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ như hiện nay. Công nghệ thông tin và chuyển đổi số chính là chìa khóa để xóa nhòa đi khoảng cách địa lý, khoảng cách về trình độ phát triển, là công cụ để đón đầu những cơ hội mới trong giai đoạn đại dịch Covid-19 diễn ra, cũng như kỷ nguyên hậu khủng hoảng.

Một thực tế diễn ra ngay từ năm 2020 khi đại dịch Covid-19 bắt đầu xuất hiện và tàn phá hầu khắp các mặt của đời sống, xã hội, rất nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng do không kịp thích nghi với sự thay đổi về cách thức vận hành phù hợp, nhưng cũng không ít doanh nghiệp đã chủ động điều chỉnh, thích nghi và duy trì được đà phát triển; nhiều doanh nghiệp dựa vào lợi thế về công nghệ, chủ động tiến hành chuyển đổi số còn phát triển nhanh hơn, mạnh hơn so với các năm trước đó.

Việt Nam với đặc thù là quốc gia đang phát triển, rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn đang loay hoay với các thiết bị, máy móc có công nghệ đã lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ. Theo thống kê, hiện có tới 24% doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ ở mức trung bình và chỉ có 1% doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến.

Chuyển đổi số chính là việc ứng dụng công nghệ vào mọi hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện trong thời đại bùng nổ về công nghệ trên nền tảng của hệ thống internet mạnh mẽ, chính vì vậy đòi hỏi trình độ rất cao của nguồn nhân lực và sự hiện đại về kỹ thuật.

Chúng ta đang hội nhập mạnh mẽ và không nằm ngoài xu thế phát triển chung của thế giới, vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam tất yếu phải thay đổi để thích nghi và phát triển. Về mặt vĩ mô, đây là thời điểm để nước ta nắm bắt cơ hội chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Các doanh nghiệp cũng cần chủ động hướng tới tất cả ứng dụng công nghệ mà thời đại 4.0, thời đại của công cuộc chuyển đổi số đã và đang sản sinh ra, nên biết kết hợp công nghệ mang tính ứng dụng để tạo ra các sản phẩm khác biệt có tính cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Tốc độ phát triển công nghệ hiện nay là rất nhanh, nếu không sớm thích nghi, doanh nghiệp sẽ không thể duy trì sự phát triển. Bên cạnh sự đầu tư về công nghệ và các giải pháp chuyển đổi số mang tính ứng dụng cao, bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải thay đổi phương thức quản trị cũng như phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao để phù hợp với kỷ nguyên số. Công nghệ phát triển kéo theo các thách thức về an toàn, an ninh trong chính các hệ thống công nghệ thông tin phục vụ doanh nghiệp, đây cũng là những thách thức mới cho mỗi doanh nghiệp.

Theo kết quả khảo sát “Thực trạng chuyển đổi số trong doanh nghiệp trong bối cảnh Covid-19” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện năm 2020 khảo sát trên 400 doanh nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bắt đầu nhận thức và ứng dụng các công nghệ số vào các khâu như quản trị nội bộ, mua hàng, logistics, sản xuất, marketing, bán hàng và thanh toán. Khi dịch Covid-19 lan rộng, dẫn tới những hạn chế tiếp xúc và các biện pháp giãn cách xã hội đã buộc các doanh nghiệp phải ứng dụng nhiều hơn các công nghệ số trong hoạt động của mình, nhất là trong quản trị nội bộ, thanh toán điện tử, marketing trực tuyến.

Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, các ngân hàng đã nghiên cứu và triển khai chiến lược chuyển đổi số cho phép khách hàng truy cập sử dụng dịch vụ ngân hàng, kết nối với các hệ sinh thái số trên nền tảng Internet thay vì các kênh giao dịch tại quầy như truyền thống. Các ứng dụng ngân hàng số như VCB Digibank của Vietcombank đang ngày một phổ biến với các công nghệ tiên tiến đáp ứng không chỉ thay đổi phương thức giao dịch truyền thống, mà còn mở rộng khả năng kết nối với các hệ sinh thái ngoài ngân hàng phục vụ thanh toán, mua sắm trực tuyến giúp thay đổi hành vi của chính mỗi người dân, doanh nghiệp.

Các chủ trương, đường lối của Đảng với chuyển đổi số

Khẳng định vai trò to lớn của khoa học công nghệ, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới” (theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, làm cho khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh”.

Đảng ta đã xác định từ sớm Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong đó mục tiêu chuyển đổi số là cơ hội cho mọi dân tộc, nhất là các dân tộc đi sau có thể có phát triển nhanh bằng đi tắt, đón đầu. Dân tộc nào nắm bắt được cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp đem lại thì phát triển, giàu có; ngược lại, dân tộc nào không nắm bắt được sẽ bị gạt ra ngoài sự phát triển. Trong đó các vấn đề cần phải thực hiện nổi lên gồm có: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát triển khoa học công nghệ và nắm bắt ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp đương đại, ứng dụng; đẩy mạnh cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực trình độ khoa học công nghệ cao.

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số làm nền tảng căn bản đưa nước ta đi vào kỷ nguyên của Công nghiệp 4.0, kỷ nguyên số. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW, đồng thời Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14/01/2020 về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII vừa diễn ra đầu năm 2021, ngay trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới cũng như đất nước đang phải căng mình chống lại đại dịch Covid-19, Đảng ta đã thích ứng với tình hình mới, đưa vào Văn kiện những khái niệm cụ thể về chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số, nội hàm của những khái niệm này cũng được nhấn mạnh nhiều lần trong mục tiêu, quan điểm phát triển các đột phá chiến lược. Với kỳ vọng là cuộc Cách mạng số sẽ thực sự tạo ra được bứt phá cho đất nước ta trong những thập niên tới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá và nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Ba đột phá chiến lược nêu trong Văn kiện Đại hội XIII về hoàn thiện đồng bộ thể chế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đều ít nhiều gắn với chuyển đổi số. Trong đó, về chiến lược xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ thì Văn kiện Đại hội Đảng đã nhấn mạnh một yếu tố rất quan trọng, đó là chú trọng phát triển hạ tầng thông tin viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số và xã hội số.

Mục tiêu về phát triển kinh tế số trong giai đoạn 2021 - 2030 được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XIII là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển cũng như các nguồn lực và thế mạnh của Việt Nam. Phát triển kinh tế số sẽ là con đường tạo ra những bứt phá quan trọng để Việt Nam đạt mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Thời gian qua, diện mạo đất nước đã thay đổi rất nhiều, chính mỗi người dân trong chúng ta đều ít nhiều cảm nhận được những thay đổi mà quá trình chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số đã tạo ra trong hầu hết các mặt của đời sống. Hầu khắp các bộ, ban, ngành cũng như các địa phương đã xây dựng hoặc bắt đầu triển khai các chương trình, đề án, kế hoạch về chuyển đổi số. Các nền tảng chuyển đổi số do chính con người Việt Nam làm chủ về công nghệ và phương thức triển khai đã giúp cho đất nước phát triển ổn định và bền vững, đáp ứng tốt với tình hình của thời đại mới, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đang diễn ra.

Có thể kể đến một số kết quả nổi bật như các nền tảng số phục vụ từ các vấn đề lớn của đất nước như trong chính công tác quản lý Nhà nước, phục vụ cho công tác phòng, chống đại dịch, hỗ trợ kết nối người dân với các đơn vị chính quyền trong đơn giản hóa thủ tục hành chính, số hóa các thủ tục hành chính trên nền tảng Cổng thông tin dịch vụ công quốc gia, triển khai trục liên thông văn bản quốc gia… cho đến các tác động vào đời sống hằng ngày của mỗi người dân như cách thức mua sắm thông qua các nền tảng số của các đơn vị, doanh nghiệp, cách thức tương tác giữa người dân với chính quyền thông qua các Cổng thông tin Chính phủ, cách thức khám chữa bệnh qua mạng lưới Telehealth với 1.000 cơ sở y tế khám chữa bệnh từ xa đã xóa nhòa khoảng cách giữa bệnh viện tuyến Trung ương với địa phương, cách thức học và thi trực tuyến trong bối cảnh đại dịch khi mà các thầy cô cũng như học sinh không thể đến trường tại các thời điểm giãn cách xã hội…

Chủ trương của Đảng với định hướng chuyển đổi số và phát triển kinh tế số sẽ mở đường cho Việt Nam tiếp cận được nhanh hơn, hiệu quả hơn các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, qua đó giúp cho đất nước vươn lên thành một quốc gia hùng cường, sớm đạt mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội.

Kết quả đạt được trong công cuộc chuyển đổi số tại Vietcombank

Trước tình hình phức tạp trên thế giới cũng như trong nước khi phải đối mặt liên tục với các đợt bùng phát của đại dịch Covid-19, các doanh nghiệp, trong đó có Vietcombank cũng phải chủ động thích nghi với tình hình mới, với các “trạng thái bình thường mới”, trong đó ứng dụng công nghệ, và chuyển đổi số được triển khai từ rất sớm. Với nền tảng ứng dụng và hạ tầng cho chuyển đổi số đã được Vietcombank đầu tư từ nhiều năm trước, việc chuyển đổi phương thức hoạt động đáp ứng với đại dịch được triển khai một cách nhanh chóng, hiệu quả. Bên cạnh đó, là doanh nghiệp có vốn Nhà nước, các chủ trương, đường lối của Đảng đề ra đều được lan tỏa sâu rộng đến tất cả các đảng viên trong Đảng bộ Vietcombank cũng như các cán bộ đang hoạt động trong toàn hệ thống Vietcombank. Các chủ trương về chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số được Ngân hàng xác định là mục tiêu sống còn trong chiến lược phát triển trong giai đoạn sắp tới.

Hoạt động trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, Vietcombank xác định phục vụ người dân, doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh chính là chức năng, nhiệm vụ của mình. Mục tiêu chuyển đổi số của Vietcombank lấy trọng tâm là khách hàng, là người dân, doanh nghiệp. Công nghệ nền tảng và chuyển đổi số đã được Đảng bộ Vietcombank xác định là mục tiêu dài hạn, là ưu thế cạnh tranh trong chiến lược phát triển từ nhiều năm trước, với hàng loạt các dự án chiến lược, các đầu tư nghiên cứu cho ra các sản phẩm mới phù hợp với tình hình thực tiễn, vừa đón đầu xu thế vừa tuân theo đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Giai đoạn 2015 - 2020, khi mà “cách mạng công nghiệp” và “chuyển đổi số” còn đang là xu thế mới nổi, đường hướng triển khai còn nhiều vấn đề phải xem xét thì Vietcombank đã hoàn thành vượt các mục tiêu chiến lược đề ra về nền tảng công nghệ hiện đại, làm tiền đề để tiếp tục xây dựng chiến lược phát triển trong những năm tiếp theo.

Với chiến lược số hóa toàn ngân hàng, ngay từ cuối năm 2019 đầu năm 2020, Vietcombank đã thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi số với các thành viên đến từ Hội đồng quản trị và Ban điều hành, trong đó đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Quản trị trực tiếp tham gia chỉ đạo các hoạt động liên quan đến mục tiêu chuyển đổi số.

Từ trước khi diễn ra đại dịch Covid-19, với sự định hướng đúng đắn của Đảng bộ Vietcombank theo tinh thần phát huy tính sáng tạo và chủ động trong hành động, Ban lãnh đạo Vietcombank đã quyết định thành lập Trung tâm Ngân hàng số để cùng phối hợp với các phòng, ban, đơn vị trong toàn hệ thống thực hiện mục tiêu chuyển đổi số, đưa Vietcombank thành ngân hàng tiên phong về công nghệ, củng cố vị thế dẫn đầu trong lĩnh vực ngân hàng trên khắp các mảng nghiệp vụ ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư…

Cùng với đó, Vietcombank đã hình thành bộ máy năng lực toàn diện, cam kết ưu tiên nguồn lực để hiện thực hóa chiến lược số hóa hoạt động ngân hàng, theo định hướng khách hàng là trung tâm, đẩy mạnh, mở rộng các sản phẩm dịch vụ đa dạng, hệ sinh thái rộng khắp, đáp ứng nhu cầu của từng phân khúc khách hàng, dẫn dắt xu hướng và đi đầu trong việc nâng cao trải nghiệm của khách hàng.

Hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thông qua các chỉ đạo sát sao của Đảng bộ Vietcombank với đại diện là Ban lãnh đạo Ngân hàng, trong thời gian vừa qua, Vietcombank đã triển khai được nhiều giải pháp, ứng dụng chuyển đổi số vào thực tiễn công việc kinh doanh, có thể kể đến như sau:

Thứ nhất, triển khai các dự án chiến lược của Vietcombank với vai trò xây dựng nền tảng chuyển đổi số

Trước tiên phải kể đến việc thay đổi hệ thống ngân hàng lõi (Core banking system) vào đầu năm 2020 đã mang đến tầm vóc mới cho Vietcombank thông qua việc đẩy nhanh tốc độ giao dịch cũng như tối đa hóa ứng dụng công nghệ thông tin trong từng sản phẩm, dịch vụ. Corebanking - Ngân hàng lõi đáp ứng đầy đủ nền tảng công nghệ của một ngân hàng thương mại hiện đại và đang được sử dụng tại hơn 45 quốc gia trên thế giới là một giải pháp chuẩn mực, định hướng số hóa, định hướng khách hàng giúp thiết lập, thay đổi các sản phẩm ngân hàng một cách linh hoạt, nhanh chóng và đáp ứng đa dạng yêu cầu của khách hàng. Ngay trong năm 2020 và năm 2021, nhờ vào việc Vietcombank triển khai hệ thống mới mà thời gian đáp ứng yêu cầu về thay đổi sản phẩm, thay đổi lãi suất hỗ trợ cho các khách hàng chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh được thực hiện trong thời gian ngắn và chính xác theo yêu cầu của Chính phủ.

Payment Hub - hệ thống nền tảng thanh toán chuẩn mực quốc tế, với khả năng tích hợp mềm dẻo, với mục tiêu số hóa và chuẩn hóa các nghiệp vụ thanh toán cho các khách hàng cũng như nội bộ tác nghiệp thanh toán tại ngân hàng.

Quản lý nội dung doanh nghiệp (ECM) với mục tiêu số hóa toàn bộ tài liệu, quy trình nội bộ tại ngân hàng, Vietcombank đã đưa vào triển khai và vận hành hệ thống để số hóa chính các hoạt động nội bộ, xóa bỏ các quy trình, giấy tờ theo thông lệ cũ, thay thế bằng các kho dữ liệu tài liệu, tập các quy trình số hóa toàn phần/bán phần, góp phần chuyển đổi số chính các tác nghiệp nội bộ.

Khởi tạo khoản vay (CLOS) với mục tiêu số hóa quy trình cấp tín dụng và cho vay tới khách hàng, Vietcombank xác định triển khai dự án và đưa vào vận hành để tự động hóa và nâng cao tính kiểm soát cho các quy trình cấp tín dụng và cho vay truyền thống, hệ thống đã giúp chuẩn hóa việc lưu trữ thông tin khách hàng và hồ sơ phê duyệt tín dụng; tự động hóa quy trình khởi tạo, luân chuyển, phê duyệt giới hạn tín dụng, cấp tín dụng cho khách hàng; đồng thời hỗ trợ theo dõi, rà soát, giám sát thực hiện các điều kiện tín dụng và hỗ trợ công tác thống kê, báo cáo cho quy trình phê duyệt tín dụng.

Ngoài ra, còn rất nhiều dự án đang trong quá trình triển khai để ngày một hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin cho mục tiêu chuyển đổi số của ngân hàng, các dự án trải đều khắp các mảng nghiệp vụ của ngân hàng, cũng như các dự án hạ tầng công nghệ thông tin, an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ ngân hàng.

Thứ hai, phát triển các nền tảng kênh số hóa tương tác với khách hàng với các sản phẩm đa tiện ích


Vietcombank đã chính thức ra mắt dịch vụ ngân hàng số hoàn toàn mới VCB Digibank trên cơ sở hợp nhất các nền tảng giao dịch trực tuyến.

VCB Digibank cho khách hàng cá nhân và PCM cho khách hàng doanh nghiệp: Hoàn thành triển khai hệ thống ngân hàng số Digibank trên nền tảng hợp nhất hai hệ thống ngân hàng điện tử của Vietcombank là Internet Banking và Mobile Banking cũng như hoàn thành triển khai ngân hàng số cho khách hàng doanh nghiệp qua hệ thống PCM. Qua đó, cho phép người dùng có trải nghiệm đồng nhất khi giao dịch trên thiết bị di động và internet cũng như mang lại hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. Lượng giao dịch phục vụ cho các khách hàng lên đến hàng triệu giao dịch một ngày đã hỗ trợ rất nhiều cho khách hàng cũng như bản thân phía ngân hàng khi dịch Covid-19 diễn ra với các lệnh giãn cách, khi mà người dân bị hạn chế đi lại, không thể đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng..

VCB Booking: Hoàn thành triển khai tiện ích VCB Booking giúp khách hàng tiết kiệm thời gian cũng như giúp Ngân hàng tối ưu được thời gian xử lý giao dịch. VCB Booking là tiện ích đặt lịch hẹn trực tuyến, cho phép khách hàng đặt lịch hẹn và khai báo thông tin của sản phẩm dịch vụ có nhu cầu sử dụng trước khi đến giao dịch tại VCB, điều này giúp tiết kiệm thời gian của khách hàng cũng như phân bổ nguồn lực tại ngân hàng hợp lý hơn. Thông tin khách hàng đã khai báo được đồng bộ vào chương trình tác nghiệp nhằm giảm thiểu thời gian xử lý giao dịch của giao dịch viên.

Thanh toán viện phí/học phí không dùng tiền mặt: Hoàn thành triển khai dịch vụ thanh toán viện phí/học phí không dùng tiền mặt cấp cho bệnh viện/cơ sở y tế/trường học thông qua kết nối trực tiếp hoặc gián tiếp giữa hệ thống thanh toán của Vietcombank với hệ thống của bệnh viện/cơ sở y tế/trường học để thu phí dịch vụ y tế/học phí trực tuyến của khách hàng thực hiện qua kênh thanh toán bằng tài khoản thanh toán của khách hàng với đa phương thức từ thẻ, ngân hàng số cho đến thanh toán qua mã QR. Trong thời gian tới, Ngân hàng sẽ tiếp tục mở rộng giải pháp để hỗ trợ kết nối với ngày một nhiều hơn các đơn vị trong hệ thống y tế, trường học, giúp thúc đẩy chính công cuộc chuyển đổi số của các bệnh viện, cơ sở y tế và trường học.

Rút tiền mặt không cần thẻ tại ATM: Cùng với sản phẩm ngân hàng số đã được ra mắt, sản phẩm rút tiền mặt không cần thẻ tại ATM đã tạo sự thuận tiện cho khách hàng. Sản phẩm được triển khai từ tháng 7/2020, ngay trong giai đoạn đầu của dịch Covid-19.

Nền tảng thanh toán cho Cổng dịch vụ công Quốc gia: Từ những tháng đầu năm 2020 khi dịch Covid-19 mới bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam, Vietcombank đã xây dựng nền tảng kết nối liên thông giữa Cổng dịch vụ công Quốc gia với các ngân hàng, qua đó giúp thuận tiện cho người dân trong khâu thanh toán các dịch vụ công, số hóa các thủ tục hành chính.

Thứ ba, nghiên cứu các tiến bộ khoa học công nghệ để ứng dụng tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người dùng

Nghiên cứu áp dụng công nghệ RPA cho việc tự động hóa các quy trình nghiệp vụ/vận hành, qua đó giúp số hóa việc vận hành các quy trình trong ngân hàng liền mạch.

Nghiên cứu công nghệ AI để triển khai áp dụng trong hoạt động ngân hàng như triển khai Chatbot trên hệ thống ngân hàng điện tử và các kênh Fanpage giúp nâng cao trải nghiệm khách hàng, nâng cao sự hài lòng của khách hàng. Mở rộng các bài toán áp dụng trí tuệ nhân tạo để phục vụ an ninh thông tin, an toàn bảo mật trong ngân hàng, giúp nâng cao độ tin cậy của khách hàng với các sản phẩm, dịch vụ của Vietcombank.

Các kết quả đạt được trong công cuộc chuyển đổi số tại Vietcombank


Ông Phạm Anh Tuấn - Thành viên Hội đồng quản trị (thứ 2 từ phải sang) cùng đại diện Vietcombank nhận giải thưởng “Ngân hàng chuyển đổi số tiêu biểu của Việt Nam năm 2020”

Tại Vietcombank, câu chuyện chuyển đổi số đã và đang diễn ra mạnh mẽ với lộ trình cụ thể, cùng các công cụ đo lường mức độ hoàn thiện qua từng giai đoạn. Với các định hướng và hành động của Đảng bộ Vietcombank cũng như toàn bộ cán bộ nhân viên trong hệ thống về mục tiêu chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, kỹ thuật giúp hiện đại hóa chính các hoạt động của ngân hàng, Vietcombank đã được vinh danh Ngân hàng chuyển đổi số tiêu biểu Việt Nam năm 2020 trong Diễn đàn ngân hàng bán lẻ năm 2020. Các sản phẩm, dịch vụ của Vietcombank luôn là sự lựa chọn ưu tiên của hàng triệu khách hàng tại Việt Nam.
Sau một thời gian triển khai đề án Phát triển công nghệ thông tin với mục tiêu chuyển đổi số toàn diện các hoạt động, với tổng số gần 50 dự án công nghệ thông tin đã và đang triển khai, trong đó có gần 40 dự án quan trọng đã hoàn thành, góp phần nâng cao năng lực hệ thống công nghệ thông tin tổng thể của Vietcombank, nâng cao năng lực kiểm soát, hạ tầng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, năng lực quản trị điều hành về dự án chuyển đổi số, từ đó, nâng cao hoạt động nghiệp vụ và kinh doanh của Vietcombank.

Qua chuyển đổi số, Vietcombank đã hỗ trợ người dân sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới với trải nghiệm tốt hơn, tiện dụng hơn và nâng cao hiểu biết tài chính của người dân, tránh các mô hình tín dụng đen và các hình thức lừa đảo. Từ đó giúp Vietcombank có được “chìa khóa” để thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững trong bối cảnh kinh tế đang gặp nhiều bất lợi do đại dịch Covid-19 gây ra. Trong hai năm 2020 và 2021, Vietcombank liên tiếp duy trì được đà tăng trưởng và giữ vị trí số một trong các ngân hàng tại Việt Nam, bên cạnh việc duy trì trách nhiệm xã hội, hỗ trợ, đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp chung tay kiểm soát đại dịch.

Trong những năm tiếp theo khi mà nhu cầu về kết nối, nhu cầu về chuyển đổi số ngày một quan trọng trong mọi lĩnh vực, cùng với đó các đòi hỏi của khách hàng cũng ngày một khắt khe hơn, phát sinh nhiều hình thái nhu cầu mới hơn, đòi hỏi Vietcombank cần chủ động đón đầu xu thế về công nghệ, chuyển đổi số để sẵn sàng thích nghi với tình hình biến động về kinh tế - xã hội. Với các kết quả đã đạt được khi vận dụng sáng tạo các chủ trương, đường lối của Đảng về mục tiêu chuyển đổi số, và cũng để sẵn sàng với các thách thức mới, Đảng bộ Vietcombank cùng toàn thể cán bộ nhân viên tiếp tục xác định chuyển đổi số, ứng dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là mục tiêu chiến lược, là thước đo chuẩn mực cho sự phát triển của Vietcombank nói riêng cũng như góp phần phát triển nền kinh tế số tại Việt Nam nói chung.

Lê Đăng Nam (Vietcombank)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Chuyển đổi số mang lại cơ hội phát triển cho ngành Ngân hàng nhưng cũng làm gia tăng rủi ro xâm phạm dữ liệu cá nhân. Dù pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã có cải thiện, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Bài viết phân tích thực trạng pháp lý hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện phù hợp với xu hướng chuyển đổi số.
Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết nghiên cứu tổng quan về tài chính phi tập trung và các mô hình phổ biến, phân tích lợi ích, thách thức, đồng thời đề xuất mô hình phù hợp để phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính quốc tế có sức cạnh tranh khu vực và toàn cầu.
Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng và hệ sinh thái ngân hàng không chỉ là xu hướng công nghệ mà đang tái định hình căn bản ngành tài chính - ngân hàng, với mục tiêu mang lại trải nghiệm tích hợp, cá nhân hóa và bao trùm. Mặc dù mở ra tiềm năng lớn trong việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ và thúc đẩy đổi mới, tuy nhiên, sự kết hợp này cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng trong tương lai.
Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI đang mở ra những cơ hội chưa từng có trong việc cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàngViệt Nam. Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức trong việc triển khai GenAI, tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam đang dần vượt qua những rào cản này để tận dụng tiềm năng to lớn của GenAI trong cung cấp các sản phẩm, dịch vụ. Với sự phát triển của công nghệ và sự chuyển đổi số mạnh mẽ trong ngành Ngân hàng, GenAI hứa hẹn sẽ mang lại những trải nghiệm khách hàng cá nhân hóa tiên tiến, góp phần nâng cao sự hài lòng của khách hàng, tăng cường lòng trung thành và thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho các ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khách hàng ngày càng mong muốn nhiều hơn sự cách tân, đổi mới đến từ các ngân hàng. Do đó, đổi mới sáng tạo không chỉ là yếu tố cần thiết để các ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, mà còn là chìa khóa để duy trì năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, từ đó nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế số.
AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent không chỉ là một xu hướng công nghệ mà còn là động lực quan trọng để các ngân hàng thích nghi và phát triển trong thời đại số hóa.
Chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại - Kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam

Chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại - Kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam

Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng không chỉ đơn thuần là việc tích hợp công nghệ số vào mọi khía cạnh của hoạt động, mà còn là quá trình thúc đẩy sự thay đổi và cải thiện toàn diện. Qua đó, ngân hàng không chỉ tạo ra các phương pháp mới hoặc điều chỉnh các quy trình kinh doanh, mà còn tạo điều kiện cho việc thay đổi văn hóa tổ chức và cải thiện trải nghiệm của khách hàng.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc