Vai trò của Ngân hàng Hợp tác xã trong hỗ trợ tài chính đối với khu vực kinh tế tập thể

Hoạt động ngân hàng
Khu vực kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX) từ lâu đã trở thành một thành phần không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
aa

Khu vực kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX) từ lâu đã trở thành một thành phần không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật HTX năm 2012 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2012 có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả KTTT, tiếp cận gần hơn với bản chất, giá trị, nguyên tắc của HTX trên thế giới. Tuy nhiên, với nguồn lực tài chính còn thiếu và yếu, khu vực KTTT chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của nền kinh tế. Cùng chung với những khó khăn đó, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (NHHTX) luôn cố gắng vượt khó để vươn lên, chung tay hỗ trợ các Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) và khu vực KTTT ngày càng lớn mạnh, nhằm nâng cao đời sống kinh tế hộ thành viên, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định an ninh, chính trị, xã hội.

1. Khái quát thực trạng phát triển của mô hình KTTT, HTX

Sau 10 năm triển khai, Luật HTX năm 2012 đã phát huy vai trò tích cực thúc đẩy KTTT phát triển, đi vào chiều sâu; nhận thức trong hệ thống chính trị các tầng lớp nhân dân về KTTT, HTX đã được nâng cao, có bước phát triển cả về số lượng cũng như chất lượng. Nhiều mô hình HTX kiểu mới ra đời, không chỉ năng động, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm mà còn bước đầu tạo được sự liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, khẳng định được thương hiệu, uy tín trên thị trường, nâng cao thu nhập cho thành viên và người lao động, thể hiện được vai trò của kinh tế HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện có hiệu quả chính sách “tam nông”, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh việc phát triển năng lực để tự mình vươn lên thì các tổ chức KTTT, HTX đã nhận được sự hỗ trợ, tạo điều kiện của Nhà nước và Chính phủ thông qua việc ban hành các chính sách như: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý HTX và các kiến thức cần thiết cho xã viên; chính sách đất đai, chính sách mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống… Từ đó, HTX từng bước hoạt động ổn định, bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác, đóng góp tích cực vào công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững.

Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng trong những năm vừa qua, KTTT, HTX phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của nền kinh tế. Năng lực nội tại của khu vực KTTT, HTX còn yếu, phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ của Nhà nước, ít có khả năng tự huy động nguồn lực từ thị trường để tăng cường năng lực cũng như chuyển đổi số. Việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi để thực hiện chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đai để mở mang nhà xưởng, hạng mục công trình của khu vực KTTT, HTX còn rất khó khăn. Nhiều HTX, liên hiệp HTX đang ở trong tình trạng khó khăn kéo dài, cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ công nghệ lạc hậu.

Đặt trong bối cảnh khó khăn chung của khu vực KTTT, các tổ chức tín dụng (TCTD) là HTX gồm NHHTX và QTDND với năng lực tài chính hạn chế, đang phải cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng thương mại cũng như các tổ chức tài chính khác trên thị trường. Dù vậy, NHHTX với vai trò là ngân hàng của các QTDND đã luôn ưu tiên hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn trong hệ thống QTDND, đóng góp một phần không nhỏ trong việc hỗ trợ tài chính cho các loại hình KTTT khác trong cả nước nhằm nâng cao đời sống kinh tế hộ thành viên, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định an ninh, chính trị đất nước nói chung, khu vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng.

2. Tổng quan NHHTX với khu vực KTTT, HTX

2.1. Sự hình thành và phát triển của NHHTX

Xuất phát từ những đòi hỏi khách quan và thực tiễn của thị trường vốn phát triển sản xuất của khu vực nông nghiệp, nông thôn, từ những năm đầu của thập niên 1990, Chính phủ đã có chủ trương xây dựng, thiết lập mô hình tín dụng hợp tác mới, phù hợp với nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Ngày 27/7/1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 390/TTg cho phép triển khai Đề án thí điểm thành lập hệ thống QTDND 3 cấp: QTDND Trung ương, QTDND khu vực và QTDND cơ sở. Ngày 05/8/1995, QTDND Trung ương khai trương hoạt động với vai trò là đơn vị đầu mối hỗ trợ điều hòa vốn và thực hiện chức năng liên kết trong toàn hệ thống QTDND. Đây là một trong những bước đi đầu tiên cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn và chủ trương đa dạng hóa các loại hình TCTD trong hoạt động ngân hàng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thí điểm hệ thống QTDND ở một số nơi đã bộc lộ những yếu kém và khuyết điểm cần phải củng cố, chấn chỉnh; mô hình tổ chức QTDND chưa hoàn thiện, chưa có sự liên kết chặt chẽ trong hệ thống để hỗ trợ nhau ổn định và phát triển bền vững; trình độ cán bộ quản lý, điều hành còn nhiều yếu kém… Do đó, ngày 10/10/2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 57-CT/TW và ngày 28/11/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND. Trên cơ sở đó, hệ thống QTDND đã chuyển đổi mô hình 3 cấp sang 2 cấp với QTDND Trung ương và QTDND cơ sở. Sau khi chuyển đổi, tính liên kết hệ thống ngày càng chặt chẽ, với sự trợ giúp trực tiếp của QTDND Trung ương đối với các QTDND cơ sở, hoạt động hệ thống QTDND có bước phát triển mạnh mẽ cả về năng lực tài chính và quy mô hoạt động, uy tín trong xã hội được tăng lên.

Thực hiện Luật Các TCTD năm 2010 (Luật số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010), Luật HTX năm 2012 (Luật số 23/2012/QH13 ngày 20/11/2012) và Quyết định số 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn 2011 - 2015”, QTDND Trung ương tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình hoạt động thành NHHTX vào tháng 7/2013. Theo đó, NHHTX là ngân hàng của tất cả các QTDND, do các QTDND và một số pháp nhân góp vốn thành lập theo quy định của Luật Các TCTD, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn cho hệ thống các QTDND thành viên; NHHTX và QTDND được thành lập, tổ chức dưới hình thức HTX. (Hình 1)


Hình 1: Mô hình cơ cấu tổ chức NHHTX


Nguồn: Cổng thông tin điện tử NHHTX

2.2. Vai trò của NHHTX đối với hệ thống QTDND

Là ngân hàng của các QTDND và là một trong những loại hình KTTT, HTX đặc trưng của nền kinh tế, NHHTX đang tích cực phát huy vai trò đầu mối trong công tác hỗ trợ, chăm sóc QTDND, cụ thể:

- Nhận tiền gửi điều hòa vốn, cho vay điều hòa vốn đối với các QTDND thành viên theo Quy chế điều hòa vốn; điều hành cơ chế lãi suất gửi vốn điều hòa trên nguyên tắc đảm bảo cho các QTDND có thể bù đắp đủ chi phí và có lãi.

- Hỗ trợ khả năng thanh khoản kịp thời cho các QTDND trong những trường hợp cần thiết, tư vấn QTDND về lãi suất cho vay, huy động phù hợp và các giải pháp nhằm hỗ trợ các QTDND khắc phục khó khăn, trở lại hoạt động bình thường.

- Tham gia hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các QTDND và hỗ trợ xử lý các QTDND yếu kém cùng với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).

- Quản lý và sử dụng hiệu quả Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND (quỹ tài chính thuộc sở hữu chung của thành viên, bao gồm NHHTX và QTDND) (Quỹ bảo toàn) nhằm hỗ trợ cho vay các QTDND gặp khó khăn về tài chính, khó khăn chi trả và cho vay đặc biệt để khắc phục trở lại hoạt động bình thường.

- Triển khai nâng cấp các phần mềm tin học, phát triển hệ thống công nghệ thông tin, nghiên cứu và phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại để cung cấp cho các QTDND thành viên và triển khai đến người dân tại khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa khó tiếp cận được với các dịch vụ ngân hàng.

- Tăng cường liên kết với các thành viên trong hệ thống thông qua công tác điều hòa vốn, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cho các QTDND và công tác hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ, đào tạo cán bộ, tư vấn trong hoạt động… nhằm hỗ trợ các QTDND hoạt động ổn định, an toàn.

- Thực hiện các hoạt động hỗ trợ khác đảm bảo cho hệ thống QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả như cung cấp sổ tiết kiệm trắng cho QTDND; hỗ trợ về công tác kiểm toán nội bộ, nhân sự của QTDND khi có yêu cầu.

Với sự trợ giúp tích cực của NHHTX, hoạt động của hệ thống QTDND đã thực sự tạo ra một kênh tín dụng thuận tiện, cung cấp cho hơn 1,8 triệu thành viên, các cá nhân, hộ gia đình nông dân trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn; khẳng định hướng đi đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển mô hình kinh tế hợp tác trong lĩnh vực tín dụng. Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 18/3/2002 về KTTT và tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã kết luận: “Đã xuất hiện thêm nhiều loại hình, mô hình KTTT, HTX hoạt động hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho các thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trong đó mô hình hoạt động có hiệu quả nhất là hệ thống QTDND (với 1.181 quỹ hoạt động trên 57/63 tỉnh, thành phố, hơn 1,8 triệu thành viên)” (Thông báo số 67/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ năm 2022). Điều này cho thấy, NHHTX đã phát huy tốt vai trò đầu mối, hỗ trợ các QTDND phát triển ổn định, hiệu quả; được Chính phủ và Nhà nước công nhận.

2.3. Vai trò của NHHTX đối với các tổ chức KTTT khác

Bên cạnh chức năng chủ yếu là đơn vị đầu mối của hệ thống QTDND, NHHTX đã phát triển các sản phẩm, dịch vụ nhằm cung cấp vốn cho người dân ở khu vực nông nghiệp, nông thôn theo định hướng của Đảng, Chính phủ về lĩnh vực ưu tiên phát triển để hỗ trợ người dân, hộ kinh doanh, hộ gia đình, HTX tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi để mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống, đẩy lùi nạn tín dụng đen, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội tại khu vực nông nghiệp, nông thôn, địa bàn vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Tạo được lòng tin và sự đồng tình ủng hộ của người dân và chính quyền sở tại. Lấp đầy “khoảng trống” thị trường cung cấp dịch vụ tài chính, tín dụng nhỏ, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, thanh toán không dùng tiền mặt tới các vùng sâu, vùng xa, nơi khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng, góp phần không nhỏ thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.

3. Một số kết quả thực hiện công tác hỗ trợ tài chính đối với QTDND và các loại hình tổ chức KTTT khác giai đoạn 2013 - 2022

3.1. Kết quả thực hiện công tác hỗ trợ tài chính của NHHTX đối với QTDND

3.1.1. Hỗ trợ tài chính thông qua việc thực hiện nhiệm vụ điều hòa vốn, hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ lãi suất... cho hệ thống QTDND

Công tác điều hòa vốn

NHHTX đã làm tốt vai trò là ngân hàng đầu mối của các QTDND, cung ứng vốn và nhận tiền gửi điều hòa từ QTDND, giúp QTDND sử dụng hiệu quả đồng vốn nhàn rỗi tạm thời cũng như hỗ trợ tối đa nhu cầu về vốn để cho vay thành viên phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh; lãi suất nhận tiền gửi điều hòa vốn luôn ưu đãi hơn so với lãi suất huy động tiền gửi từ dân cư và tổ chức kinh tế cùng kỳ hạn; đa dạng các kỳ hạn gửi tiền... do vậy, đã khuyến khích các QTDND tích cực huy động vốn từ thành viên để gửi NHHTX.

Đồng thời, nhằm bảo đảm nguồn vốn hỗ trợ cho các QTDND phát triển, kịp thời cung cấp vốn cho thành viên mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh, NHHTX luôn cân đối nguồn vốn phù hợp, ưu tiên nguồn vốn với lãi suất ưu đãi để cho vay điều hòa vốn các QTDND, 100% nhu cầu vay vốn của các QTDND đang hoạt động bình thường, an toàn, hiệu quả, có nhu cầu bổ sung nguồn vốn để hoạt động đều được NHHTX đáp ứng.

Theo báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của NHHTX, từ năm 2013 đến nay, dư nợ cho vay của NHHTX đối với QTDND trong khoảng từ 4.000 đến 7.000 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 2,46%/năm - thấp hơn so với nguồn tiền gửi điều hòa của QTDND vào NHHTX. Điều này chứng tỏ với sự hỗ trợ của NHHTX, hệ thống QTDND đã có sự phát triển đáng kể về năng lực tài chính, chất lượng cán bộ và trình độ quản lý; củng cố được vị thế của mình trên địa bàn, đem lại sự tin tưởng cho các thành viên gửi tiền nên các QTDND đã tự cân đối được nguồn vốn huy động tại chỗ để cho vay, đồng thời còn dư thừa nguồn vốn gửi về NHHTX (Hình 2).

Hình 2: Biểu đồ cơ cấu điều hòa vốn

Đơn vị: Tỷ đồng


Nguồn: Báo cáo hoạt động của NHHTX qua các năm

Hỗ trợ thanh khoản

Đối với các QTDND đang hoạt động bình thường khi có nhu cầu vay vốn để chi trả tiền gửi cho khách hàng gửi tiền đều được NHHTX đáp ứng đầy đủ, kịp thời, góp phần tăng uy tín và đảm bảo an toàn trong hoạt động của QTDND. Trong giai đoạn 2013 - 2022, doanh số cho vay QTDND để hỗ trợ chi trả tiền gửi khoảng 5.000 đến 6.000 tỷ đồng.

Hỗ trợ mở rộng tín dụng

Với mục tiêu chủ yếu là liên kết bảo đảm an toàn trong hoạt động của hệ thống QTDND, NHHTX luôn chủ động, tích cực hỗ trợ vốn cho các QTDND khi có nhu cầu để QTDND cho vay hỗ trợ thành viên phát triển sản xuất, kinh doanh. Đối với những QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả khi có nhu cầu bổ sung nguồn vốn, NHHTX kịp thời điều chỉnh mức cho vay mở rộng tín dụng vượt mức quy định tại Quy chế điều hòa vốn nhằm hỗ trợ hoạt động, điển hình như QTDND các tỉnh Lâm Đồng, Thái Bình, Nghệ An, Hà Nam, Đắk Lắk, Phú Thọ, Nam Định, Hà Tĩnh, Tây Ninh...

Hỗ trợ lãi suất

Đối với QTDND gặp khó khăn, đang trong quá trình thực hiện phương án củng cố, chấn chỉnh, NHHTX đã thực hiện miễn, giảm lãi cho vay, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với khoản vay cũ; áp dụng lãi suất thấp hơn lãi suất thông thường đối với các khoản cho vay mới… nhằm hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các QTDND thực hiện có hiệu quả phương án củng cố, chấn chỉnh, qua đó, một số QTDND đã được NHNN chấm dứt tình trạng kiểm soát đặc biệt để trở lại hoạt động bình thường.

Năm 2020, NHHTX đã 06 lần điều chỉnh lãi suất huy động, 03 lần điều chỉnh lãi suất cho vay. Tháng 8/2020, ngay khi dịch Covid-19 bắt đầu bùng phát mạnh, NHHTX đã thực hiện giảm thêm tối đa 1%/năm lãi suất cho vay so với mức lãi suất sàn cho vay (tương ứng mức lãi suất cho vay thấp nhất là 4,8%/năm) để hỗ trợ QTDND vượt qua khó khăn. Trong thời gian này, tiền gửi điều hòa về NHHTX vẫn tăng mạnh lên đến gần 30.000 tỷ đồng, trong khi dư nợ cho vay các QTDND giảm còn hơn 3.000 tỷ đồng.

Trong quý IV/2021, NHHTX tiếp tục triển khai chương trình cho vay “Chung tay hỗ trợ thành viên QTDND” với lãi suất thấp nhất chỉ còn 3,5%/năm, giúp cho thành viên của QTDND có cơ hội tiếp cận nguồn vốn giá rẻ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng dư nợ cho vay QTDND trong những tháng cuối năm.

Hỗ trợ đối với các QTDND khó khăn, có dấu hiệu mất an toàn theo chỉ đạo của NHNN

Thông qua mối liên kết hệ thống, nếu phát hiện QTDND nào có dấu hiệu mất an toàn, NHHTX sẽ tư vấn kịp thời các biện pháp khắc phục, xây dựng phương án củng cố, chấn chỉnh; khẩn trương báo cáo và đề xuất với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, cấp ủy, chính quyền địa phương để có sự phối hợp chỉ đạo kịp thời và triển khai các biện pháp tuyên truyền, giải thích đến khách hàng gửi tiền và thành viên QTDND nhằm ổn định tâm lý, tránh tình trạng người dân đến rút tiền hàng loạt, ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh trật tự và an toàn hệ thống. Đồng thời, NHHTX đã cử hàng trăm cán bộ giữ các chức vụ Phó Giám đốc, Trưởng, Phó Trưởng phòng của NHHTX hỗ trợ các QTDND đang gặp khó khăn đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐQT, Giám đốc, Kế toán trưởng hoặc tham gia Ban Kiểm soát đặc biệt của QTDND…

Bên cạnh đó, NHHTX cho vay xử lý khó khăn về thanh khoản đến QTDND để chi trả tiền gửi cho người gửi tiền ngay sau khi có ý kiến chỉ đạo của NHNN nhằm hỗ trợ các QTDND khắc phục khó khăn.

Trong một số trường hợp cấp bách, các QTDND gặp khó khăn nếu không được tháo gỡ sẽ phát sinh những vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội, NHHTX vẫn sẽ thực hiện cấp hạn mức và cho vay chi trả tiền gửi đối với những QTDND chưa đủ điều kiện theo Quy chế điều hòa vốn nhằm hỗ trợ các QTDND sớm khắc phục khó khăn, trở lại hoạt động bình thường.

Hỗ trợ nhu cầu thanh toán và chi tiêu theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán

NHHTX cũng đã triển khai dịch vụ thấu chi tài khoản thanh toán đối với các QTDND thành viên tham gia hệ thống CF-eBank nhằm hỗ trợ nguồn vốn thiếu hụt tạm thời, đáp ứng nhu cầu thanh toán chuyển tiền của thành viên, khách hàng. Từ đầu năm 2022 đến nay, có 397 QTDND được cấp hạn mức thấu chi với tổng số tiền cấp hơn 500 tỷ đồng. Mặt khác, NHHTX cũng triển khai cho vay theo hạn mức thấu chi đối với thẻ ghi nợ cho cán bộ, nhân viên và thành viên của QTDND. Trong 8 tháng đầu năm 2022, NHHTX đã phê duyệt hạn mức thấu chi cho 1.080 khách hàng là cán bộ, nhân viên của 98 QTDND. (Hình 3)


Hình 3: Kết quả cho vay theo hạn mức thấu chi trên thẻ QTDND
Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Báo cáo hoạt động của NHHTX

Quản lý, sử dụng Quỹ bảo toàn

Ngoài việc thực hiện công tác điều hòa vốn cho QTDND, NHHTX còn đảm nhiệm việc quản lý, sử dụng Quỹ bảo toàn nhằm mục tiêu cho vay hỗ trợ QTDND khi gặp khó khăn về tài chính, khó khăn về chi trả để có thể khắc phục trở lại hoạt động bình thường. Theo Thông tư số 03/2014/TT-NHNN ngày 23/01/2014 của Thống đốc NHNN quy định về Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND và Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về NHHTX, QTDND và Quỹ bảo toàn: Hoạt động của Quỹ bảo toàn không vì mục tiêu lợi nhuận, theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm; NHHTX, QTDND (trừ trường hợp đang bị áp dụng kiểm soát đặc biệt) có trách nhiệm trích nộp phí tham gia đầy đủ, đúng hạn vào Quỹ bảo toàn một năm một lần trước ngày 31/01 của năm tiếp theo. Nguồn vốn nhàn rỗi của Quỹ bảo toàn được sử dụng trên nguyên tắc đảm bảo an toàn nguồn vốn và đáp ứng yêu cầu cho vay hỗ trợ các QTDND, NHHTX không thuộc đối tượng được hỗ trợ cho vay từ Quỹ này. Từ khi thành lập đến nay, Quỹ bảo toàn đã cho vay hỗ trợ hơn 30 QTDND, giúp các QTDND khắc phục khó khăn, trở lại hoạt động bình thường.

3.1.2. Hỗ trợ tài chính thông qua việc dùng tiền và nguồn lực của NHHTX trong việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm khác

Cung cấp dịch vụ thanh toán và các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại cho QTDND để triển khai đến các thành viên nhằm tăng lượng thành viên và tăng thu nhập cho QTDND

Cùng xu thế chung của thế giới, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh lực tài chính, ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ, các sản phẩm, dịch vụ thanh toán ngày càng tiện lợi đáp ứng yêu cầu của người dân nhất là vùng sâu, vùng xa nơi khó tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng. QTDND với nguồn lực tài chính hạn chế, trình độ công nghệ lạc hậu đang dần khó cạnh tranh với các TCTD và ngân hàng thương mại trong địa bàn, đồng thời, bài toán mở rộng thành viên cũng trở nên nan giải khi mà các dịch vụ hiện đại của các TCTD khác đang ngày càng hút khách. Việc đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin rất tốn kém về cả con người và cơ sở vật chất, vượt ngoài khả năng của các QTDND. Vì vậy, với vai trò đơn vị đầu mối hỗ trợ hệ thống QTDND, NHHTX đang tiếp tục đầu tư, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt; mở rộng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiện ích, tối ưu và an toàn, phù hợp để cung cấp cho các QTDND nhằm tăng cường mối liên kết, chi phí hợp lý; đặc biệt là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại cho thành viên thu nhập thấp ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng như: Dịch vụ ngân hàng điện tử Mobile Banking; chuyển tiền 24/7, thanh toán hóa đơn (điện, nước, Internet...); nộp tiền học phí, thu phí tự động đường bộ (VETC); mở thẻ chíp Co-opbank Napas…

Việc NHHTX cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại cho QTDND là rất quan trọng:

(i) Góp phần đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, từ đó thu hút thêm nhiều thành viên gia nhập vào QTDND; (ii) Phát triển sản phẩm, dịch vụ phi tín dụng góp phần nâng cao uy tín và vị thế của QTDND; (iii) Phân tán rủi ro trong hoạt động, thay vì trước đây nguồn thu của QTDND chỉ phụ thuộc vào tín dụng thì giờ đây thông qua việc chia sẻ phí của NHHTX, QTDND có thêm nguồn thu nhập ổn định từ việc đưa các sản phẩm, dịch vụ tới tay thành viên; (iv) Giúp tiết kiệm chi phí, thời gian đi lại cho thành viên QTDND mọi lúc, mọi nơi, xóa nhòa khoảng cách nông thôn - thành thị, thúc đẩy tài chính toàn diện quốc gia; (v) Thúc đẩy quan hệ hợp tác, tiến bộ để ngày càng phát triển trong lĩnh vực ngân hàng.

Hỗ trợ công tác đào tạo

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của QTDND được xem là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ QTDND đủ mạnh, vừa có chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý, điều hành, vừa có đạo đức nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu công việc. Chính vì vậy, NHHTX luôn chú trọng tập trung nhân lực, vật lực để đầu tư cho công tác đào tạo nhằm củng cố, nâng cao năng lực cho các cán bộ làm việc tại QTDND, cụ thể: Tổ chức các chương trình liên kết đào tạo liên thông từ trung cấp lên đại học, hình thức vừa học vừa làm dành cho các cán bộ đang làm việc tại QTDND; tập huấn cho cán bộ QTDND trong việc triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại như: E-banking, Ngân hàng điện tử Co-opbank Mobile Banking, mở thẻ thấu chi Co-opbank Napas, hỗ trợ đào tạo nghiệp vụ cho QTDND do NHNN phối hợp Hiệp hội QTDND tổ chức…

Thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ khác đảm bảo cho hệ thống QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả. NHHTX luôn chú trọng thực hiện chức trách, nhiệm vụ đối với QTDND như đầu mối tổ chức in ấn, cung ứng sổ tiết kiệm trắng, đảm bảo cho QTDND theo quy định, tư vấn các mặt hoạt động cho QTDND, hỗ trợ về công tác kiểm toán nội bộ, nhân sự của QTDND khi có yêu cầu; triển khai các dự án quốc tế để hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho hệ thống QTDND…

3.1.3. Kết quả đạt được

Với sự hỗ trợ tích cực của NHHTX, giai đoạn 2013 - 2022, hoạt động của hệ thống QTDND luôn tăng trưởng mạnh mẽ. Mặc dù vậy, NHHTX với nguồn lực tài chính hạn hẹp - đặc biệt là nguồn vốn hạn chế - đang dần gặp khó khăn trong việc hỗ trợ các QTDND thành viên (tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay của NHHTX bằng 1/2 của các QTDND về số tương đối nhưng số tuyệt đối chỉ bằng gần 1/5 so với các QTDND; vốn điều lệ của NHHTX trong 10 năm chỉ tăng 51%, trong khi vốn điều lệ của các QTDND tăng 216%; tổng tài sản của QTDND hơn 167.000 tỷ đồng trong khi tổng tài sản của NHHTX mới hơn 50.000 tỷ đồng...) (Hình 4).

Hình 4: Biểu đồ tăng trưởng vốn điều lệ và tổng tài sản
Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Báo cáo hoạt động của NHHTX qua các năm

Hơn thế nữa, trong quá trình hoạt động, NHHTX luôn phải đảm bảo tỷ lệ an toàn theo Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 của Thống đốc NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thêm vào đó, với vai trò là đơn vị đầu mối hệ thống, NHHTX không chỉ đảm bảo các tỷ lệ an toàn cho bản thân NHHTX mà còn phải đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống QTDND, các hoạt động cho vay hỗ trợ đối với QTDND yếu kém, được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của NHNN luôn tiềm ẩn nguy cơ mất vốn cao. Khi QTDND có dấu hiệu mất an toàn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ an toàn của NHHTX. Tuy nhiên, năng lực tài chính hiện nay của NHHTX còn hạn chế, nên việc đảm bảo an toàn cho hệ thống QTDND là vô cùng khó khăn. Ngoài ra, giá trị tài sản cố định quá nhỏ so với các ngân hàng thương mại Nhà nước. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng, phát triển công nghệ thông tin của NHHTX hết sức khó khăn và lạc hậu so với các TCTD khác. Mặc dù vậy, trong những năm qua, NHHTX luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao.

3.2. Kết quả thực hiện công tác hỗ trợ tài chính của NHHTX với các loại hình tổ chức KTTT khác

NHHTX luôn chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp về lãi suất và tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân, loại hình HTX khác vay vốn, trong đó tập trung cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình cá nhân, HTX, tổ hợp tác, các dự án, phương án có hiệu quả. Việc tăng trưởng tín dụng của NHHTX được thực hiện theo chỉ tiêu NHNN giao và đúng định hướng ưu tiên của Chính phủ, NHNN cho vay khu vực nông nghiệp, nông thôn, trong đó tập trung cho vay đối với các hộ gia đình, cán bộ, công nhân viên là giáo viên nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ đời sống tại khu vực nông thôn. Ngoài việc cho vay trực tiếp đối với khách hàng, NHHTX cũng tích cực triển khai cho vay và giải ngân thông qua các QTDND theo hình thức cho vay liên kết, cho vay hợp vốn. Những đồng vốn này đã góp phần tích cực vào công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống, góp phần an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, hạn chế nạn tín dụng đen tại các vùng nông thôn. Tổng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của các đối tượng là gia đình, hộ kinh doanh, doanh nghiệp, HTX, liên hiệp HTX... của NHHTX tính đến ngày 31/8/2022 là hơn 16.000 tỷ đồng, chiếm 54% tổng dư nợ toàn hệ thống.

Tuy nhiên, nếu chỉ xét riêng về dư nợ cho vay đối với khách hàng là HTX, liên hiệp HTX khác thì vẫn còn rất khiêm tốn và chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

4. Những hạn chế và khó khăn của NHHTX

Về vốn điều lệ: Năng lực tài chính của NHHTX còn hạn chế (vốn điều lệ quá thấp, hiện mới đạt 3.029 tỷ đồng, tương đương mức tối thiểu theo quy định), gây khó khăn cho NHHTX trong thực hiện vai trò là ngân hàng đầu mối, liên kết, hỗ trợ cho các QTDND thành viên và thực hiện các nhiệm vụ khác được NHNN giao. Do hoạt động của NHHTX không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu mà chủ yếu là hỗ trợ hệ thống QTDND thông qua điều hòa vốn, nhận tiền gửi của các QTDND thành viên với lãi suất cao hơn lãi suất huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế với kỳ hạn tương đương, trong khi cho vay QTDND với lãi suất thấp, dẫn đến lợi nhuận hằng năm không cao, vì vậy, tỷ lệ chia cổ tức cũng rất hạn chế, từ đó giảm sức hấp dẫn về lợi ích để thu hút các QTDND góp vốn và càng không thể huy động được các nguồn vốn bổ sung vốn điều lệ từ các TCTD, các pháp nhân, HTX khác. Trong khi đó, vốn góp thường niên từ các QTDND thành viên và nguồn Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của NHHTX hằng năm là quá nhỏ. Nguồn vốn để tăng vốn điều lệ cho NHHTX là từ nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, đây là nguồn vốn bền vững, lâu dài, ổn định; là chỗ dựa làm tăng uy tín, sức mạnh cho hệ thống QTDND nói chung và NHHTX nói riêng, thì nguồn vốn này vẫn chưa được đề cập đến trong các chính sách hỗ trợ gần đây.

Về mạng lưới hoạt động: Hiện nay, NHHTX mới chỉ có 32 chi nhánh hoạt động tại 30 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong khi toàn hệ thống QTDND là 1.187 quỹ, hoạt động trên địa bàn 57 tỉnh, thành phố và đa số các QTDND có địa bàn hoạt động tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, do đó, nhiều chi nhánh NHHTX phải phụ trách địa bàn nhiều tỉnh, thành phố nơi có QTDND hoạt động nên gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tiếp cận, hỗ trợ và chăm sóc các QTDND thành viên.

Về công tác nhân sự: Nguồn nhân lực của NHHTX hiện nay còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, chưa đủ nguồn nhân lực khi vừa phải đáp ứng yêu cầu hoạt động của NHHTX vừa cử cán bộ (có chuyên môn nghiệp vụ cao và kinh nghiệm lâu năm) để trực tiếp tham gia hỗ trợ các QTDND trong công tác quản lý, điều hành và đặc biệt là xử lý những tồn tại đối với các QTDND yếu kém, gặp khó khăn. Trong những năm qua, thiên tai, dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng đến công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ được giao.

Về đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin: Hệ thống công nghệ thông tin của NHHTX hiện đã lạc hậu và giá trị đầu tư còn lại của hệ thống công nghệ thông tin tính đến ngày 31/12/2021 chỉ còn 67,46 tỷ đồng, trong khi đó, số lượng giao dịch ngày càng gia tăng và dữ liệu giao dịch ngày càng lớn đang vượt quá khả năng đáp ứng của hệ thống. Mặc dù thời gian qua NHHTX đã tập trung mọi nguồn lực để đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin nhưng chưa được như kỳ vọng do hạn chế năng lực tài chính.

Về cơ chế xử lý và thu hồi các khoản cho vay hỗ trợ đối với QTDND yếu kém không có khả năng phục hồi: Hiện nay, dư nợ cho vay các QTDND được kiểm soát đặc biệt của NHHTX là rất lớn, khó có khả năng thu hồi, gây ảnh hưởng đến nguồn vốn hoạt động của NHHTX trong công tác điều hòa vốn, hỗ trợ QTDND gặp khó khăn về thanh khoản và phát triển mở rộng tín dụng hỗ trợ các loại hình kinh tế khác trong nền kinh tế.

Về công tác tăng trưởng dư nợ cho vay QTDND thành viên: Mặc dù, NHHTX đã triển khai nhiều hoạt động, chính sách phù hợp và giải pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đối với QTDND thành viên, nâng dần tỷ trọng dư nợ cho vay QTDND thành viên so với tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống. Tuy nhiên, từ năm 2019 đến nay, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên tỷ trọng dư nợ cho vay đối với QTDND có xu hướng chậm lại.

Về cơ chế, chính sách hỗ trợ hoạt động cho NHHTX: Cơ chế, chính sách đảm bảo an toàn trong hoạt động, liên kết giữa QTDND và NHHTX chưa hoàn thiện; chưa có cơ chế để cho vay hỗ trợ kịp thời các QTDND thiếu khả năng chi trả nhưng có nguy cơ rủi ro cao; các khoản cho vay QTDND phần nhiều không có tài sản bảo đảm, trong khi cơ chế dự phòng chi trả, hỗ trợ xử lý các khoản cho vay đối với các QTDND yếu kém cũng như xử lý các khoản nợ tồn đọng đã cho vay để hỗ trợ chi trả và cho vay đặc biệt chưa có. Đặc biệt, mức thuế thu nhập doanh nghiệp của NHHTX là 17% - còn quá cao và chưa thật sự tương xứng với những đóng góp của NHHTX đối với hoạt động của hệ thống QTDND nói riêng và sự phát triển của khu vực KTTT

nói chung.

5. Một số kiến nghị, đề xuất

5.1. Đối với Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các bộ, ngành liên quan

Để giúp cho NHHTX nâng cao năng lực tài chính, phát huy vai trò là ngân hàng của các QTDND cũng như hỗ trợ tối đa cho các tổ chức KTTT khác, Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các bộ, ngành liên quan cần đưa ra một số chính sách hỗ trợ, cụ thể sau:

Thứ nhất, bổ sung vốn điều lệ cho NHHTX để đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ được giao

Thực tiễn hoạt động hiện nay, các loại hình tổ chức KTTT, HTX khác đều là đối tượng được sự hỗ trợ của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, còn NHHTX và các QTDND - loại hình HTX được đánh giá là phát triển và hoạt động hiệu quả nhất trong thành phần KTTT, HTX hiện nay - không được sự hỗ trợ của Quỹ này. Mặt khác, tuy là loại hình HTX được đánh giá hoạt động hiệu quả nhất, nhưng thực tiễn hoạt động thời gian qua đã xuất hiện một số tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến an toàn trong hoạt động của hệ thống QTDND nếu không được xử lý, khắc phục kịp thời. Trong khi đó, NHHTX là ngân hàng của tất cả các QTDND nhưng cũng đã gặp những hạn chế, vướng mắc và nếu không được giải quyết sẽ khó có thể tiếp tục thực hiện tốt các chức trách, nhiệm vụ được giao đối với QTDND, cụ thể: Năng lực tài chính của NHHTX còn hạn chế, vốn điều lệ còn thấp; quy mô vốn và tài sản của NHHTX còn quá nhỏ so với hệ thống QTDND và thấp nhất trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, ảnh hưởng lớn đến các tỷ lệ an toàn chung của hệ thống; công nghệ thông tin chưa phát triển; cơ sở vật chất xuống cấp, thiếu thốn; nguồn nhân lực hạn chế… Mạng lưới hoạt động mới chỉ có tại 30 tỉnh, thành phố nhưng thực hiện nhiệm vụ điều hòa vốn, kiểm tra, giám sát, hỗ trợ cho 1.181 QTDND trên địa bàn 57 tỉnh, thành phố trên cả nước… Do vậy, NHHTX rất cần được Nhà nước hỗ trợ tăng cường năng lực tài chính để nâng cao vốn điều lệ, đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ điều hòa vốn, hỗ trợ khả năng chi trả và thực hiện chức trách, nhiệm vụ chăm sóc, hỗ trợ hệ thống QTDND hoạt động ổn định, an toàn và phát triển bền vững, hướng tới thúc đẩy sự phát triển của các loại hình HTX khác trong toàn quốc, đảm bảo đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 đạt được nhiệm vụ “Phát triển NHHTX có đủ năng lực tài chính, tăng cường năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động an toàn, hiệu quả, bền vững để thực hiện tốt vai trò là ngân hàng của tất cả các QTDND. Thực hiện tính liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn, bảo đảm an toàn hệ thống các QTDND, hỗ trợ thúc đẩy phát triển các loại hình KTTT là HTX khác trên phạm vi toàn quốc” đã được giao tại Quyết định số 340/QĐ-TTg ngày 12/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chiến lược phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021 - 2030”.

Thứ hai, có chính sách hỗ trợ tín dụng khi cho vay đối với HTX gặp rủi ro, không trả được nợ vay

Hiện nay, thành phần KTTT nói chung, mô hình HTX nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận nhưng không ít HTX vẫn còn đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do các HTX hiện đang rất thiếu vốn hoạt động, hạn chế về khả năng huy động nguồn lực từ thị trường, tình trạng thiếu vốn khiến nhiều HTX không thể mở rộng sản xuất, kinh doanh, thậm chí còn có khả năng rơi vào nguy cơ phá sản, nhiều HTX muốn vươn lên tiếp cận công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm lại gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân của hạn chế trên là do các HTX thường có quy mô nhỏ, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, năng lực tài chính yếu và thiếu minh bạch, hệ thống thông tin báo cáo chưa bài bản, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, năng lực cạnh tranh yếu và đặc biệt là đa số hoạt động còn riêng rẽ, chưa có tổ chức đầu mối liên kết như một liên hiệp để hỗ trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn về nguyên liệu đầu vào cũng như sản phẩm đầu ra. Ngoài ra, phần lớn các HTX thiếu tài sản thế chấp, cầm cố để vay vốn, nếu có thì giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản trên đất chưa đảm bảo tính pháp lý, vì vậy, không đủ điều kiện làm tài sản bảo đảm để tiếp cận vốn từ các TCTD, nhất là đối với HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn khó khăn hơn nhiều so với các HTX hoạt động phi nông nghiệp. Mặt khác, nhiều HTX chưa có khả năng xây dựng phương án kinh doanh, dự án đầu tư khả thi và hiệu quả để vay vốn các TCTD do trình độ của cán bộ chủ chốt của HTX chưa được qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao và phần lớn tuổi đời trên 50 nên ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng công tác quản lý và hiệu quả hoạt động của HTX. Thêm vào đó, rủi ro trong hoạt động sản xuất của các HTX là khá cao, đặc biệt là rủi ro trong lĩnh vực nông nghiệp do điều kiện thời tiết, khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…

Trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay, bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động cho vay, nhận tiền gửi, điều hòa vốn đối với các QTDND, NHHTX đã nhiều lần khảo sát, tìm hiểu nhằm mở rộng tín dụng phục vụ các HTX khác. Nhưng với những khó khăn và rào cản nêu trên, cùng với năng lực tài chính hạn chế, mặc dù dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của NHHTX luôn chiếm từ 70 - 80% tổng dư nợ nhưng cho vay các HTX khác chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Giải pháp để mở rộng tín dụng cho vay các HTX khác trong giai đoạn hiện nay là cần có các biện pháp khắc phục những khó khăn, rào cản nêu trên cũng như có cơ chế hỗ trợ (bù lỗ) khi cho vay đối với HTX gặp rủi ro, không trả được nợ vay.

Thứ ba, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho NHHTX, QTDND

Thực tiễn hoạt động của NHHTX hiện nay chia thành 02 mảng hoạt động: Phục vụ QTDND thành viên và phục vụ khách hàng không phải là QTDND thành viên (doanh nghiệp, cá nhân). Tuy nhiên, mảng phục vụ khách hàng không phải là QTDND thành viên chịu áp lực lớn hơn rất nhiều so với các ngân hàng thương mại. Bởi vì, các ngân hàng thương mại đặt mục tiêu hoạt động là tối đa hóa lợi nhuận nên hầu hết các mảng hoạt động đều nhắm tới mục tiêu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Còn đối với NHHTX, trong 27 năm hoạt động từ khi thành lập đến nay, mảng phục vụ khách hàng không phải là QTDND tập trung vào đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, cá nhân trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn... nên vẫn mang tính tập trung hỗ trợ các ngành nghề ưu tiên của Chính phủ, do đó, lợi nhuận mang lại rất khiêm tốn. Mặt khác, phần lợi nhuận thu về NHHTX đã dành phần không nhỏ để phục vụ các hoạt động hỗ trợ, chăm sóc các QTDND thành viên, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, phương tiện, sản phẩm, dịch vụ để phục vụ các QTDND - những khoản mục đầu tư này là thường xuyên và rất lớn. Bên cạnh đó, các khoản chi phí cho các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ QTDND thành viên chiếm đa phần trong các khoản mục chi phí của NHHTX. Tuy nhiên, hiện nay, mức thuế thu nhập doanh nghiệp của NHHTX là 17% còn quá cao, chưa thật sự tương xứng với những đóng góp của NHHTX đối với hệ thống QTDND nói riêng, sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn nói chung. Theo đó, rất cần các cơ quan, ban, ngành có cơ chế miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho NHHTX, QTDND nhằm thực hiện tốt mục tiêu đề ra.

Thứ tư, đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi để tạo cơ chế thuận lợi trong việc chi trả tiền gửi cho người gửi tiền vào QTDND khi QTDND đó bị lâm vào tình trạng thanh lý, giải thể, cũng như để Bảo hiểm tiền gửi tham gia hỗ trợ, cho vay QTDND khi QTDND gặp khó khăn, phải củng cố, chấn chỉnh để khôi phục hoạt động.

5.2. Đối với NHNN

Một là, tiếp tục quan tâm, nghiên cứu, xem xét chỉnh sửa và ban hành cơ chế quản lý phù hợp với tính đặc thù trong hoạt động của QTDND đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả, an toàn của QTDND và NHHTX.

Hai là, NHNN có vai trò đặc biệt quan trọng là đầu mối phối hợp với các bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cấp bổ sung vốn điều lệ cho NHHTX để tăng cường năng lực tài chính và xây dựng NHHTX trở thành công cụ hữu hiệu của NHNN, đủ mạnh để làm tốt vai trò ngân hàng đầu mối hỗ trợ hệ thống QTDND.

Ba là, NHHTX là loại hình tổ chức tín dụng là HTX, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn cho hệ thống các QTDND thành viên; là “bệ đỡ” cho các QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả nên rất cần có những chính sách đặc thù không giống như các TCTD khác.

Bốn là, NHHTX và các QTDND là loại hình TCTD là HTX, các QTDND là thành viên của NHHTX nên các khoản cho vay điều hòa vốn giữa NHHTX và QTDND đều là cho vay tín chấp; đặc biệt, NHHTX còn phải cho vay hỗ trợ QTDND gặp khó khăn về thanh khoản, chi trả hoặc cho vay QTDND yếu kém, QTDND đang trong tình trạng kiểm soát đặc biệt. Tuy nhiên, hiện nay, NHHTX phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, tính tài sản có rủi ro đối với các khoản cho vay QTDND thành viên giống như cho vay khách hàng ngoài thành viên (là doanh nghiệp, cá nhân). Do đó, đề nghị NHNN quan tâm, sớm có văn bản hướng dẫn riêng cho NHHTX về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản cho vay QTDND; sớm có cơ chế phân loại nợ và trích lập dự phòng đối với khoản cho vay QTDND gặp khó khăn, có dấu hiệu mất an toàn trong hoạt động, không thu hồi được nợ; có cơ chế hỗ trợ xử lý các khoản cho vay đối với các QTDND có nguy cơ mất khả năng chi trả hoặc lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, bị kiểm soát đặc biệt như: Cho phép NHHTX được bán các khoản nợ cho vay QTDND cho Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) để thu về trái phiếu đặc biệt và được trích lập dự phòng cho trái phiếu đặc biệt trong thời hạn 10 năm.

Năm là, tăng cường quản lý nhà nước đối với hệ thống QTDND thông qua công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra. Xây dựng mới, tăng cường cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, quản lý, giám sát hệ thống QTDND thống nhất, kết nối QTDND với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố để phục vụ hiệu quả công tác giám sát vi mô và vĩ mô đối với hệ thống và kịp thời kiểm soát, xử lý rủi ro, yếu kém đối với từng QTDND.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Luật Các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010.

2. Luật HTX số 23/2012/QH13 ngày 20/11/2012.

3. Dự thảo Luật Các tổ chức kinh tế hợp tác.

4. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương.

5. Thông báo số 67/TB-VPCP về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về KTTT và tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012.

6. Chỉ thị số 57-CT/TW ngày 10/10/2020 của Bộ Chính trị.

7. Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg ngày 28/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ.

8. Quyết định số 207/QĐ-NHNN ngày 20/3/2000 của Thống đốc NHNN.

9. Các báo cáo hoạt động của NHHTX và QTDND.

10. Cổng thông tin điện tử Thời báo Tài chính.

11. Cổng thông tin điện tử Liên minh HTX Việt Nam

TS. Khuất Duy Tuấn
Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc