Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Chính sách
Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
aa

1. Mở đầu

Hệ thống các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có vai trò huyết mạch trong việc cung cấp vốn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo ổn định tài chính. Với vai trò trung gian tài chính, các tổ chức tín dụng không chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân tiếp cận nguồn vốn mà còn góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chính sách kinh tế của Nhà nước. Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn nhất hiện nay mà các tổ chức tín dụng đang phải đối mặt là vấn đề xử lý tài sản bảo đảm và xử lý nợ xấu. Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội, ban hành ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42) đã tạo hành lang pháp lý quan trọng nhằm hỗ trợ việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, mang lại nhiều kết quả tích cực.

Cụ thể, từ ngày 15/8/2017 đến 30/12/2023, tổng giá trị nợ xấu được xử lý đạt 443,8 nghìn tỉ đồng, trong đó thu hồi từ bán phát mại tài sản bảo đảm đạt 92,5 nghìn tỉ đồng. Trung bình mỗi tháng, nợ xấu được xử lý đạt khoảng 5,80 nghìn tỉ đồng, cao hơn 2,28 nghìn tỉ đồng so với giai đoạn trước khi Nghị quyết có hiệu lực1. Tuy nhiên, kể từ ngày 31/12/2023, Nghị quyết số 42 hết hiệu lực thi hành đã khiến các tổ chức tín dụng và tổ chức mua bán, xử lý nợ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn trong việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm do khung pháp lý còn chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ liên quan đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm, việc kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án, hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự. Nhằm khắc phục những bất cập trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chủ trì xây dựng dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, dự kiến được Quốc hội thông qua vào tháng 5/2025. Dự thảo tập trung vào mục tiêu cải thiện quy trình xử lý tài sản bảo đảm, thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, từ đó tạo ra một khung pháp lý minh bạch, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn.

2. Nội dung dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối năm 2024, tổng dư nợ tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng đạt khoảng 14 triệu tỉ đồng, với tỉ lệ nợ xấu nội bảng chiếm khoảng 3,5%. Tuy nhiên, nếu tính cả các khoản nợ xấu tiềm ẩn và các khoản nợ đã chuyển nhượng cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), tỉ lệ nợ xấu thực tế có thể dao động từ 5% đến 6%. Những con số này phản ánh áp lực lớn mà các tổ chức tín dụng và tổ chức xử lý nợ đang phải đối mặt, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản - một trong những lĩnh vực chiếm tỉ trọng lớn trong tài sản bảo đảm - có dấu hiệu chững lại trong vài năm gần đây. Việc xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm tại Việt Nam hiện nay gặp phải một số rào cản như:

Một là, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện.

Hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn một số bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu, đặc biệt trong các trường hợp phức tạp như tranh chấp quyền sở hữu tài sản thuộc sở hữu chung, hoặc tài sản liên quan đến nhiều bên. Việc không luật hóa các quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm (trừ quy định về việc chuyển tiếp tại khoản 6 Điều 210 Luật Các tổ chức tín dụng) cũng như không quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án và quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự dẫn đến hệ quả là khi hết hiệu lực thi hành Nghị quyết số 42 thì các quy định liên quan đến nội dung trên không còn được áp dụng. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, việc xử lý, thu giữ tài sản bảo đảm phụ thuộc vào phán quyết của tòa án khiến thời gian xử lý kéo dài, có khi lên tới vài năm làm tăng chi phí pháp lý cho các tổ chức tín dụng; còn đối với các loại tài sản bảo đảm là động sản như máy móc, thiết bị, nhà xưởng sẽ bị hao mòn và giảm giá trị theo thời gian. Khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện là một trong những nguyên nhân khách quan gây ra hạn chế trong công tác xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm gắn liền với khoản nợ xấu, làm kéo dài quá trình xử lý nợ xấu, ảnh hưởng đến việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các tổ chức tín dụng yếu kém.

Hai là, thị trường mua bán nợ chưa phát triển.

Mặc dù VAMC được thành lập vào năm 2013 với mục tiêu hỗ trợ xử lý nợ xấu, thị trường mua bán nợ tại Việt Nam vẫn còn non trẻ so với các quốc gia phát triển. Đối mặt với nhiều thách thức, VAMC đã nỗ lực thích ứng, đẩy mạnh hoạt động mua bán và xử lý nợ theo kế hoạch được Ngân hàng Nhà nước giao. Tuy nhiên, thị trường này vẫn gặp nhiều thách thức như tính thanh khoản thấp và sự thiếu vắng các nhà đầu tư tiềm năng. Nhiều khoản nợ mà các tổ chức tín dụng chào bán cho VAMC không đáp ứng các điều kiện theo quy định, hoặc thuộc nhóm nợ phức tạp, khó xử lý, như các khoản nợ liên quan đến khách hàng không hợp tác, doanh nghiệp ngừng hoạt động, hoặc các vụ án đang trong quá trình thi hành án. Sàn giao dịch nợ VAMC là một mô hình mới với hàng hóa được chào bán là các khoản nợ, tài sản bảo đảm có tính thanh khoản thấp, từng được các tổ chức tín dụng xử lý trong nhiều năm nhưng không thành công nên chưa thực sự hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư quan tâm giao dịch. Ngoài ra, hạn chế về nguồn vốn và chuyên môn của các công ty quản lý tài sản trong nước cũng khiến thị trường mua bán nợ thiếu tính cạnh tranh và động lực phát triển.

Ba là, thủ tục hành chính thiếu đồng bộ.

Việc xử lý tài sản bảo đảm phải tuân thủ các quy định tại Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Đấu giá tài sản và các văn bản hướng dẫn liên quan. Tuy nhiên, các quy định này còn chồng chéo, chưa giải quyết được những đặc thù của hoạt động ngân hàng. Khác với các giao dịch dân sự thông thường, hoạt động ngân hàng được vận hành theo cơ chế nhận tiền gửi để cho vay, do đó đòi hỏi các quy định pháp lý đặc thù nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng và đảm bảo an toàn hệ thống. Việc áp dụng các quy trình xử lý tài sản bảo đảm theo quy định chung của pháp luật dân sự như khởi kiện, chờ phán quyết hoặc bản án của tòa án… không chỉ kéo dài thời gian mà còn tiềm ẩn nguy cơ gây tổn thất tài chính cho các tổ chức tín dụng, thậm chí làm phát sinh các rủi ro hệ thống trong trường hợp nợ xấu không được kiểm soát kịp thời.

Những hạn chế trong khung pháp lý, thị trường mua bán nợ và thủ tục hành chính, như đã phân tích, đang làm suy giảm hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến khả năng cung ứng tín dụng và tiềm ẩn rủi ro đối với sự ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam. Đặc biệt, việc thiếu các công cụ pháp lý hiệu quả để xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm gắn liền với các khoản nợ xấu đã đặt các tổ chức tín dụng vào tình thế khó khăn, làm chậm tiến độ thu hồi vốn và gia tăng áp lực tài chính. Trước thực trạng đó, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm trở thành yêu cầu cấp thiết, nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tài chính và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững. Để giải quyết các vấn đề trên, dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng đã được thiết kế để luật hóa các quy định hiệu quả từ Nghị quyết số 42 không chỉ kế thừa các thành tựu từ giai đoạn thí điểm mà còn đề xuất các cơ chế mang tính đột phá, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Các giải pháp cụ thể được quy định trong dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, bao gồm:

Thứ nhất, quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm (Điều 198a).

Dự thảo bổ sung Điều 198a, quy định rõ quyền của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức mua bán, xử lý nợ trong việc thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, gồm:

- Quyền thu giữ chủ động: Tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm mà không cần phán quyết của tòa án khi đáp ứng các điều kiện: (1) Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự; (2) Hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác (sau đây gọi là hợp đồng bảo đảm) có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật; (3) Biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; (4) Tài sản bảo đảm không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật; không thuộc trường hợp bị tạm đình chỉ xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản. Theo quy định như trên, việc thu giữ tài sản bảo đảm được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện đã có giữa bên cho vay và bên vay. Trường hợp trong hợp đồng đã có thỏa thuận thì việc thực hiện thu giữ chính là việc tôn trọng và tuân thủ quy định của hợp đồng, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của các bên đã giao kết trước đó và cũng nhằm tôn trọng kỷ cương, trật tự xã hội. Trường hợp trong hợp đồng bảo đảm không có thỏa thuận về thu giữ thì tổ chức tín dụng không được thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm.

- Quy trình công khai và minh bạch: Trước khi thu giữ tài sản bảo đảm (bao gồm cả bất động sản và động sản), tổ chức tín dụng phải thông báo công khai thông tin về thời gian, địa điểm, tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ, riêng đối với bất động sản thì thời gian công khai thông tin phải thực hiện chậm nhất là 15 ngày trước khi tiến hành thu giữ. Thông báo được thực hiện qua các kênh như trang thông tin điện tử, gửi văn bản đến Ủy ban nhân dân và công an cấp xã nơi có tài sản bảo đảm, đồng thời thông báo trực tiếp cho bên bảo đảm. Điều này đảm bảo tính minh bạch và giảm thiểu tranh chấp và tăng cường sự giám sát cộng động.

- Sự tham gia hỗ trợ của chính quyền địa phương nơi có tài sản bảo đảm: Ủy ban nhân dân cấp xã và Công an cấp xã nơi có tài sản bảo đảm được yêu cầu hỗ trợ đảm bảo an ninh, trật tự trong quá trình thu giữ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nợ tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ.

- Giới hạn phạm vi ủy quyền: Tổ chức tín dụng chỉ được ủy quyền thu giữ cho các công ty quản lý nợ thuộc chính tổ chức tín dụng đó; tổ chức mua bán, xử lý nợ chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc tổ chức tín dụng bán nợ. Các biện pháp thu giữ phải tuân thủ pháp luật và không được trái đạo đức xã hội. Tổ chức tín dụng phải ban hành quy định nội bộ về thu giữ tài sản bảo đảm để đảm bảo tính thống nhất và trách nhiệm.

Việc luật hóa quy định về thu giữ tài sản bảo đảm giúp tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ có thêm công cụ linh hoạt, giảm phụ thuộc vào con đường tố tụng kéo dài, từ đó tiết kiệm thời gian và chi phí. Quy định này không chỉ giữ gìn mối quan hệ hợp tác giữa bên cho vay và bên vay mà còn giảm áp lực cho hệ thống tư pháp, đồng thời đảm bảo không xâm phạm quyền con người, quyền công dân, và quyền sở hữu theo Hiến pháp, phù hợp với nguyên tắc tại Điều 3 và Điều 3012 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thứ hai, quy định về kê biên tài sản bảo đảm (Điều 198b).

Điều 90 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên tài sản cầm cố, thế chấp trong trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản bảo đảm nào khác để thi hành án hoặc có tài sản mà không đủ nếu giá trị tài sản bảo đảm đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Quy định này ảnh hưởng lớn đến quyền chủ nợ của bên nhận bảo đảm, làm gia tăng nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay là nguồn chính để trả nợ. Khó khăn nêu trên đã cơ bản được khắc phục, xử lý khi Điều 11 Nghị quyết số 423 có hiệu lực. Tuy nhiên, tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ tiếp tục gặp khó khăn khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực kể từ ngày 31/12/2023 mà quy định trên chưa được luật hóa tại Luật Các tổ chức tín dụng. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng bổ sung Điều 198b quy định về việc kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu, theo đó tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu tại tổ chức tín dụng chỉ bị kê biên theo quy định của Luật Thi hành án dân sự trong các trường hợp thi hành án liên quan đến cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc khi tổ chức tín dụng đồng ý bằng văn bản. Quy định này bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức tín dụng, đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ ưu tiên như cấp dưỡng hoặc bồi thường thiệt hại, tạo sự cân bằng giữa các lợi ích liên quan.

Thứ ba, quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng hoặc tang vật (Điều 198c).

Hiện nay, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ quy định việc trả lại tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó; hoặc trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định về việc hoàn trả tài sản/vật chứng là bên tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm sau khi cơ quan tiến hành tố tụng hoàn tất thủ tục xác định tài sản bảo đảm là vật chứng hay không phải là vật chứng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng với vai trò là bên nhận bảo đảm cũng như ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ. Ngoài ra, khoản 1 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định cụ thể trường hợp khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định không áp dụng hình thức tịch thu đối với tang vật, phương tiện trong vụ việc vi phạm hành chính thì hoàn trả tang vật, phương tiện là tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm có thể dẫn đến việc không còn tài sản bảo đảm khi cơ quan có thẩm quyền hoàn trả tài sản cho chủ tài sản là bên bảo đảm. Dự thảo Luật bổ sung Điều 198c, quy định rõ việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự hoặc là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cho tổ chức tín dụng. Theo đó, đối với tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự thì sau khi cơ quan tố tụng hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, tài sản bảo đảm sẽ được hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo đề nghị của tổ chức tín dụng. Còn đối với tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, nếu cơ quan có thẩm quyền không áp dụng hình thức xử phạt tịch thu đối với tài sản trên thì phải hoàn trả tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng thay vì trả lại cho bên bảo đảm. Quy định này giúp tổ chức tín dụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp, đảm bảo khả năng tiếp cận tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu, đồng thời tăng cường hiệu quả quản lý tài sản trong các vụ án hình sự hoặc vi phạm hành chính.

3. Tác động và thách thức của các quy định mới

Các quy định trong dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Việc xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm hiệu quả sẽ giải phóng nguồn vốn “đóng băng”, tăng cường lưu thông vốn, hỗ trợ phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19 và thúc đẩy các dự án hạ tầng trọng điểm. Việc xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng và hiệu quả sẽ giúp các tổ chức tín dụng thu hồi vốn, từ đó giảm tỉ lệ nợ xấu và cải thiện chất lượng tài sản, giúp giảm áp lực tài chính cho các doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Với nguồn vốn được thu hồi, các tổ chức tín dụng sẽ có thêm nguồn lực để mở rộng hoạt động tín dụng, đầu tư vào công nghệ và nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các tổ chức tín dụng đang phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng và các công ty Fintech. Đặc biệt, một khung pháp lý minh bạch và hiệu quả sẽ giúp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư, nhất là đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này có thể thúc đẩy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực tài chính. Theo ước tính, nếu các quy định mới được triển khai hiệu quả, tỉ lệ nợ xấu nội bảng có thể giảm xuống dưới 2% trong vòng 3 - 5 năm tới, tạo nền tảng cho sự ổn định tài chính và tăng trưởng bền vững.

Tuy nhiên, quá trình triển khai cũng đối mặt với một số thách thức. Tranh chấp pháp lý, đặc biệt liên quan đến tài sản giá trị lớn hoặc nhiều bên, có thể phát sinh, đòi hỏi tổ chức tín dụng cần phải xử lý thận trọng và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định. Việc thu giữ tài sản bảo đảm, đặc biệt là bất động sản dân cư, có thể gây phản ứng tiêu cực từ dư luận trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Do đó, cần có chiến lược truyền thông rõ ràng để giải thích quy định và đảm bảo tính minh bạch. Hơn nữa, sự phối hợp liên ngành giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự là yếu tố then chốt để đảm bảo hiệu quả thực thi. Nếu không có sự đồng bộ, hiệu quả của các quy định có thể bị hạn chế. Sự chậm trễ trong ban hành văn bản hướng dẫn hoặc thiếu nguồn lực thực thi có thể hạn chế tác động của các quy định mới.

4. Kết luận

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại dự thảo Luật không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Để đạt được mục tiêu, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức tín dụng và các bên liên quan, cùng với việc đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả trong quá trình triển khai. Với những hướng đi mới trong dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng, Việt Nam đang từng bước xây dựng một hệ thống tài chính vững mạnh, sẵn sàng hội nhập và cạnh tranh trên trường quốc tế. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng, việc sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ là một giải pháp pháp lý mà còn là một chiến lược dài hạn để củng cố niềm tin vào hệ thống tài chính, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

1 Báo cáo về việc Tổng kết việc thi hành Nghị quyết số 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước.

2 Điều 301 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”.

3 Điều 11 Nghị quyết số 42 quy định: “Các tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 của Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu”.

Ngô Thị Huyền Linh
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Tin bài khác

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô