Vai trò của kinh tế nhà nước tại Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn

Nghiên cứu - Trao đổi
PGS., TS. Nguyễn Hồng Nga * TS. Lê Tuấn Lộc * Nghiên cứu nhìn lại và đánh giá vai trò kinh tế của nhà nước tại Việt Nam trên cả góc độ lý thuyết và bình diện thực tế sau 30 năm đổi mới và phát t...
aa

PGS., TS. Nguyễn Hồng Nga *

TS. Lê Tuấn Lộc *

Nghiên cứu nhìn lại và đánh giá vai trò kinh tế của nhà nước tại Việt Nam trên cả góc độ lý thuyết và bình diện thực tế sau 30 năm đổi mới và phát triển kinh tế. Vai trò của Nhà nước được nhìn nhận dưới góc độ vi mô nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường là độc quyền, ngoại tác, hàng hóa công, thông tin bất cân xứng và hành vi bất hợp lý. Nhà nước đóng vai trò giảm thiểu các khuyết tật của thị trường, tái phân phối một phần của cải để đảm bảo công bằng, cân bằng, hiệu quả và sự tiến triển cho toàn xã hội.

Bài viết phân tích trên góc độ lý thuyết để nhìn lại nhà nước (mà chính phủ là đại diện) thực hiện những chức năng của mình thông qua việc tập trung khắc phục thất bại của thị trường.

Ðộc quyền

Theo Samuelson, độc quyền là hiện tượng chỉ có một nhà sản xuất trong ngành và không có ngành nào sản xuất ra mặt hàng thay thế gần gũi (6, trang 322).

Mankiw cho rằng, nguyên nhân cơ bản của độc quyền là các rào cản gia nhập (2, trang 337). Ông cũng cho rằng, các rào cản gia nhập đến lượt nó, lại phát sinh từ ba dạng chính sau đây:

(i) Độc quyền về nguồn lực: Một nguồn lực quan trọng cần thiết cho quá trình sản xuất được sở hữu của một doanh nghiệp duy nhất.

(ii) Các quy định của chính phủ: Chính phủ trao cho một doanh nghiệp duy nhất quyền sản xuất một vài hàng hoặc
dịch vụ.

(iii) Quy trình sản xuất: Một doanh nghiệp có khả năng sản xuất hàng hóa với chi phí thấp hơn với các doanh nghiệp khác (hay còn gọi là độc quyền tự nhiên khi một doanh nghiệp duy nhất có thể cung ứng một mặt hàng hoặc dịch vụ cho toàn bộ thị trường với chi phí thấp hơn trường hợp có hai hoặc nhiều doanh nghiệp (3, trang 337
và 338).

Kinh tế học đã chứng minh rằng, thị trường cạnh tranh đạt được hiệu quả cao nhất tính trên góc độ phúc lợi xã hội. Nhưng một doanh nghiệp độc quyền là một nhà sản xuất duy nhất và (nếu không được điều tiết, giám sát về phía nhà nước) có thể (và trong thực tế xảy ra) ấn định giá cả mà không sợ bị cạnh tranh bởi một mức giá thấp hơn của đối thủ khác. Hậu quả của độc quyền là nó có thể tính giá cao hơn và sản xuất ít hơn so với mức lẽ ra sẽ đạt được trong điều kiện cạnh tranh. Những yếu tố này sẽ dẫn đến sự xa rời của tính hiệu quả, và những quan ngại về công bằng, như tình trạng tổn thất thặng dư của người tiêu dùng cũng như xã hội và lợi nhuận quá cao của nhà độc quyền. Đồng thời, sự lựa chọn của người tiêu dùng bị hạn chế do chỉ có một nhà cung cấp
hàng hóa.

Đa phần các tập đoàn trên được hưởng quy chế độc quyền; chỉ có điện, nước được coi là ngành độc quyền tự nhiên. Chúng ta phải trả giá cho những tình trạng độc quyền này bằng các mức giá phi cạnh tranh và chất lượng dịch vụ luôn bị than phiền. Quan trọng hơn là các tập đoàn này sử dụng rất kém hiệu quả nguồn vốn của nhà nước, gây thất thoát hàng trăm ngàn tỷ và bức xúc của toàn dư luận xã hội. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến vai trò “cú đấm thép” của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), các doanh nghiệp này không có động cơ lợi nhuận mà hầu như cũng chẳng có tư duy về lợi ích xã hội. Các nhà kinh tế đã nhận định: con người hành động vì động cơ. Khi động cơ không đúng đắn thì hành động sẽ không hợp lý, trong đó, có cả việc nhà nước cần ngăn cản những hành vi (có vẻ) hợp lý của một vài cá nhân nhưng có ảnh hưởng xấu đến xã hội (tổng lợi ích xã hội là âm). Do vậy, chúng tôi đề nghị nhà nước cần có cách thức để điều tiết độc quyền, đơn giản nhất là xóa bỏ độc quyền, đẩy mạnh cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế.

Theo Mankiw, các nhà hoạch định chính sách có thể giải quyết vấn đề độc quyền theo một trong bốn cách sau:

Thứ nhất, tìm cách làm cho các ngành độc quyền có tính cạnh tranh cao hơn.

Thứ hai, kiểm soát hành vi của các doanh nghiệp độc quyền.

Thứ ba, chuyển đổi một số doanh nghiệp độc quyền tư nhân thành DNNN.

Thứ tư, không làm gì cả (3, trang 358).

Theo chúng tôi, ở Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể sử dụng giải pháp thứ hai để giải quyết trong chừng mực nào đó hiện tượng độc quyền, tức là chính phủ điều chỉnh hành vi của nhà độc quyền. Chính phủ có thể yêu cầu nhà độc quyền đặt giá bằng chi phí trung bình và lợi nhuận kinh tế bằng không. Trường hợp lý tưởng, chính phủ có thể yêu cầu các doanh nghiệp độc quyền định giá bằng chi phí biên. Tuy nhiên, trong trường hợp này, đối với độc quyền tự nhiên thì điều này làm cho nhà độc quyền bị lỗ nên nhà nước phải bù lỗ cho doanh nghiệp trong trường hợp điều tiết như vậy. Các trường hợp khác, nếu nhà độc quyền bị lỗ thì nhà nước buộc phải bù đắp một phần chi phí cố định của hãng độc quyền. Có một cách thức khác là chính phủ cho phép nhà độc quyền thu được tỷ suất lợi nhuận tối thiểu và bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế sau khi kiểm soát các chi phí hợp lý của doanh nghiệp độc quyền. Ở đây, cần có một ủy ban độc lập và trong sạch trong việc minh bạch các chi phí hợp lý của doanh nghiệp thì sự can thiệp của nhà nước mới đem lại hiệu quả.

Thông tin bất cân xứng

Thông tin bất cân xứng là tình huống, trong đó người mua và người bán nắm giữ thông tin khác nhau trong một giao dịch. (5, trang 646).

Thông tin bất cân xứng là một tình huống, trong đó một số tác nhân có được thông tin tốt hơn một số tác nhân khác (1, trang 89).

Thông tin bất cân xứng biểu hiện ở khắp nơi như ngân hàng, thị trường nhà đất, bảo hiểm, chứng khoán, đồ cũ, thị trường lao động, thực phẩm… Thường những bên có thông tin nhiều hơn sẽ lấy điều này để làm lợi cho họ. Làm thế nào người tiêu dùng có thể biết được thông tin chính xác về sản phẩm mà nhà sản xuất ghi trên bao bì, tại sao người dân lại bị ngộ độc thực phẩm, liệu sản phẩm nhập từ nước ngoài có đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, có bảo quản bằng hàn the hay không, liệu xăng chúng ta mua có đúng tiêu chuẩn hay không, có bị đổ xăng thiếu hay không, sữa bột liệu có nhiều protein hay nhiều melamine… Đây là những vấn đề mà thị trường và người tiêu dùng khó, nếu không nói là không thể giải quyết được. Vì vậy, nhà nước phải tham gia bằng việc đề ra các tiêu chuẩn và phải giám sát được quá trình đảm bảo chất lượng bằng các quy định ngặt nghèo và nghiêm túc để bảo vệ người dân
của mình.

Thông tin bất cân xứng là một khuyết tật của thị trường vì nó gây ra:

- Sự lựa chọn ngược (AS: Adverse Selection)

- Rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại (MH: Moral Hazard)

- Vấn đề người ủy quyền - Người thừa hành (PA: Principle - Agent)

Những vấn đề về thông tin không tương xứng với chất lượng sản phẩm được Georgie Akerlof (Nobel kinh tế năm 2001 cùng với Michael Spence và Josep Stiglitz) phân tích đầu tiên vào năm 1970. Những phân tích của Akerlof không chỉ bó gọn trong thị trường về xe hơi đã qua sử dụng. Các thị trường khác như bảo hiểm, tín dụng và thậm chí thị trường lao động cũng đều mang tính đặc trưng của thông tin bất cân xứng về chất lượng sản phẩm và dịch vụ.

Lựa chọn ngược và tâm lý ỷ lại là hai hậu quả của việc tồn tại thông tin bất cân xứng trên thị trường. Vậy giải pháp chính xác các cách thức khác nhau nhằm giảm thiểu sự bất cân xứng về thông tin đối với các bên tham gia giao dịch thị trường.

Có hai nhóm giải pháp chủ yếu là giải pháp tư nhân và giải pháp từ phía chính phủ. Cả hai nhóm giải pháp này về bản chất đều dựa trên đề xuất của hai nhà kinh tế được giải Nobel, đó là Michel Spence và Joe Stiglitz. Trong khi M. Spence cho rằng người có thông tin sẽ có thể chuyển tải nó theo cái cách mà người không biết được thông tin có thể tin tưởng được thì J. Stiglitz lại nhìn vấn đề theo góc độ ngược lại và khám phá ra những phương pháp, trong đó, người không có thông tin có thể tìm ra thông tin (2, trang 195)

Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến các giải pháp của chính phủ, nhằm giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường.

Vì thông tín bất cân xứng là một khuyết tật của thị trường, do vậy, việc nhà nước can thiệp vào thị trường bằng nhiều chính sách và giải pháp là một trong những nhiệm vụ hàng đầu và bắt buộc đối với các cơ quan chức năng của chính phủ nhằm giảm bớt tình trạng này và giảm bớt thiệt hại đối với các bên tham gia vào thị trường. Một số giải pháp của chính phủ có thể là:

- Thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng. Ở Việt Nam, hiệp hội này đã tồn tại nhưng trên thực tế, hội này chỉ có trên danh nghĩa, còn người tiêu dùng vẫn bị thiệt thòi trong các giao dịch thị trường.

- Cấp giấy phép chứng nhận tư cách pháp nhân và chất lượng sản phẩm (trước khi hoạt động).

- Kiểm tra, kiểm soát (sau khi hoạt động) an toàn vệ sinh thực phẩm, đóng dấu chất lượng và cấp giấy phép lưu thông, kiểm tra đối chiếu với thực tế và tiêu chuẩn đã đăng ký.

- Chính phủ và các cơ quan chức năng nhà nước cần cung cấp thông tin một cách minh bạch và chính xác về: quy hoạch đô thị, về dịch bệnh, về nhà đầu tư, các doanh nghiệp, đưa ra các dự báo về cung cầu đối với các thị trường trong và ngoài nước…

- Thiết lập và củng cố các thể chế, nhất là thể chế kinh tế (xây dựng khung pháp lý) để có các biện pháp xử phạt, chế tài mang tính răn đe nhằm hạn chế việc sử dụng thông tin bất cân xứng gây bất lợi cho người tiêu dùng.

Quan trọng là đằng sau các giải pháp này phải có một chế tài mang tính răn đe, thậm chí xử lý bằng hình sự và các cán bộ nhà nước phải có tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp. Có như vậy mới xử lý được tình trạng tranh sáng tranh tối trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực của thất bại thị trường này.

Đối với vấn đề người ủy quyền - người thừa hành, các giải pháp tổng thể có thể là: Người ủy quyền tạo ra khuyến khích vật chất và phi vật chất để mục tiêu của người thừa hành phù hợp và tương ứng với mục tiêu của mình như trả lương và thưởng theo hiệu quả công việc, thưởng bằng cổ phiếu của công ty, giáo dục lòng tự trọng và đạo đức nghề nghiệp, trao các danh hiệu thi đua, các giải thưởng nghề nghiệp và của chính phủ, trao cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp… Và thiết kế hệ thống kiểm tra, giám sát: có một hệ thống giám sát và giải trình hiệu quả, đào tạo theo hệ tín chỉ, sinh viên được quyền lựa chọn môn học và giáo viên, lấy phiếu tín nhiệm định kỳ…

Ngoại tác

Ngoại tác là hành động của nhà sản xuất hay người tiêu dùng tác dụng đến sản xuất hay tiêu dùng khác và tác động đó không được tính vào giá thị trường
(5, trang 678).

Do vậy, ngoại tác là sự tác động ra bên ngoài của một đối tượng đến lợi ích hay chi phí của một hay một số đối tượng khác mà không thông qua giao dịch và không được phản ánh qua giá cả. Hay nói một cách khác, ngoại tác là ảnh hưởng của hoạt động sản xuất và tiêu dùng không được phản ảnh trong thị trường. Đôi khi ngoại tác được gọi là tác động đến bên thứ ba.

Các ngoại tác tiêu cực phát sinh khi hành động của một nhà sản xuất hay người tiêu dùng áp đặt lên chi phí cho người khác mà không có sự đền bù thỏa đáng. Ví dụ là nhà máy xả chất thải xuống sông, dân cư ở hạ nguồn và người sử dụng sẽ phát sinh tổn thất do nước ô nhiễm hay tiếng ồn của các cơ sở Karaoke đối với người dân sống xung quanh... Ngoại tác tích cực phát sinh khi hành động của một nhà sản xuất hay người tiêu dùng mang lại lợi ích cho người khác. Ví dụ, hàng xóm sửa sang nhà cửa hay trồng thêm cây xanh, cây hoa kiểng…Nếu nhà nước không can thiệp thì hàng hóa có ngoại tác tiêu cực sẽ được sản xuất nhiều hơn và ngoại tác tích cực sẽ được cung cấp ít hơn trong trường hợp có sự can thiệp tích cực và chủ động của nhà nước.

Ô nhiễm môi trường, tính trung thực và giả dối, giáo dục phổ thông, y tế và y tế cộng đồng… Là những vấn đề hết sức bức bối có liên quan đến khuyết tật thứ ba của thị trường và bàn tay hữu hình của nhà nước có vai trò tối quan trọng trong việc giải quyết vấn đề trên.

Ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm không khí nói riêng hiện nay là một trong những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động du lịch của Việt Nam và làm gia tăng các chi phí cải thiện môi trường. Ngoài ra, việc xung đột về lợi ích các nhóm xã hội trong khai thác và sử dụng tài nguyên môi trường. Rõ rệt nhất là những vụ khiếu kiện, khiếu nại gần đây liên quan đến việc xả chất thải gây tổn hại kinh tế cho nông dân trồng lúa và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản của Công ty Vedan, Công ty San Miguel Pure Foods và vụ Formosa trong năm 2016...
Còn tại các làng nghề là xung đột giữa hoạt động sản xuất của làng nghề và hoạt động nông nghiệp, giữa giàu có và môi trường sống. Nguyên nhân do thiếu sự tham gia của tất cả các bên liên quan dẫn đến mất cân bằng về lợi ích giữa các nhóm xã hội, do cơ chế chính sách và thực thi chính sách yếu kém...

TP. Hồ Chí Minh, theo xếp hạng của WB (2012), là một trong 10 thành phố ô nhiễm nhất thế giới. Nguyên nhân gây ô nhiễm là do nguồn khí thải công nghiệp và giao thông vận tải, trong đó ô nhiễm do ô tô và xe máy chiếm chủ yếu. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống người dân tại đây. Vì vậy, chính phủ cần có các giải pháp cứng rắn hơn để giảm thiểu và ngăn chặn hiện tượng ô nhiễm môi trường, nhất là hạn chế xe máy, trong đó cần dứt khoát loại bỏ những phương tiện giao thông quá cũ hoặc hết hạn sử dụng và bắt buộc các phương tiện phải kiểm tra kỹ thuật 2 năm hoặc 5 năm một lần. Hoặc đánh thuế cao với những xe đã sử dụng nhiều năm, tức là đánh thuế lũy tiến theo số năm sử dụng bởi vì xe càng sử dụng lâu năm càng gây ô nhiễm và gây ra chi phí lớn cho xã hội.

Chính phủ có thể dùng các giải pháp sau để giảm ngoại tác tiêu cực: đánh thuế hiệu chỉnh, quy định mức xả thải hiệu quả, xác định chuẩn thải, phí xả thải, phát hành giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng.

Hàng hóa công

Hàng hóa công là một sản phẩm không có tính cạnh tranh và không thể loại trừ: chi phí biên của hàng hóa cho thêm một người tiêu dùng là bằng không và không thể loại trừ họ sử dụng hàng hóa đó (5, trang 704).

Hàng hóa công là hàng hóa dùng chung cho mọi người và quan trọng là người dùng không phải trả tiền trực tiếp. Đây là những hàng hóa cần thiết cho xã hội nhưng tư nhân không muốn sản xuất và như vậy nhà nước phải đứng ra thay mặt xã hội tổ chức sản xuất hàng hóa này.

Hàng hóa công có hai tính chất: (i) chúng là các hàng hóa không mang tính tranh giành; và (ii) không thể loại trừ. Một hàng hóa không mang tính cạnh tranh nếu với một mức sản lượng đã cho, chi phí biên của việc cung cấp hàng hóa đó cho thêm một người tiêu dùng bằng không. Với hầu hết các hàng hóa được tư nhân cung cấp, chi phí biên của việc sản xuất thêm hàng hóa đó là dương. Nhưng với một số hàng hóa, những người tiêu dùng tăng thêm không làm tăng chi phí sản xuất. Hãy xem xét việc hưởng thụ pháo hoa trong những ngày lễ lớn, hay việc sử dụng những con đường cao tốc trong giờ không cao điểm. Vì đường cao tốc đã được xây dựng từ trước và không có kẹt xe, nên chi phí tăng thêm của việc lái xe trên đó bằng không. Ngọn hải đăng hay chương trình truyền hình công cộng cũng là những ví dụ khi chi phí phục vụ thêm một khách hàng bằng không. Ví dụ thêm nữa về hàng hóa công là an ninh quốc phòng, pháo hoa, ngọn hải đăng, đèn chiếu sáng, công viên,cây xanh, không khí trong lành, luật bảo vệ người tiêu dùng, các chương trình y tế cộng đồng, các dịch vụ công…Trong số này, nhiệm vụ đảm bảo an ninh cho người dân và bầu không khí trong lành là hết sức quan trọng quyết định chất lượng cuộc sống của người dân.

Hầu hết các hàng hóa đều có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Ví dụ, bạn mua một chiếc xe máy hay một chiếc ô tô, bạn đã loại bỏ khả năng một cá nhân khác có thể mua nó. Những hàng hóa mang tính cạnh tranh phải được phân bổ giữa các cá nhân theo khả năng chi trả. Các hàng hóa không mang tính cạnh tranh có thể được cung cấp cho mọi người mà không ảnh hưởng đến cơ hội tiêu dùng chúng của bất kỳ ai.

Một hàng hóa không mang tính loại trừ nếu không thể loại trừ mọi người khỏi việc sử dụng nó. Do vậy, rất khó hoặc không thể thu tiền mọi người cho việc sử dụng hàng hóa không mang tính loại trừ, có thể hưởng thụ hàng hóa đó mà không phải trả tiền trực tiếp. Một ví dụ điển hình về hàng hóa không mang tính loại trừ là an ninh quốc phòng. Một quốc gia, ví dụ Việt Nam đã có một nền an ninh quốc phòng tốt thì mọi người sống trên lãnh thổ Việt Nam đều được hưởng lợi ích về nó, kể cả người nước ngoài sinh sống và làm việc tại đất nước hình chữ S và khách du lịch quốc tế. Y tế cộng đồng hay đèn chiếu sáng trên phố là các ví dụ về hàng hóa không mang tính loại trừ.

Các hàng hóa không mang tính loại trừ không nhất thiết phải có tầm cỡ quốc gia. Nếu một tỉnh hay thành phố phát động phong trào chiến dịch diệt chuột thì tất cả người dân ở khu vực đó đều được lợi. Không thể loại trừ một người dân nào khỏi lợi ích của chương trình này. Tủ lạnh mang tính loại trừ và cả cạnh tranh nữa. Nếu một nhà kinh doanh tủ lạnh bán chiếc tủ lạnh mới cho một người tiêu dùng thì người bán này đã loại trừ những cá nhân khác trong việc mua chiếc tủ lạnh đó.

Một số hàng hóa mang tính loại trừ nhưng không mang tính cạnh tranh. Ví dụ, trong giờ không cao điểm thì việc đi trên một chiếc cầu không mang tính cạnh tranh vì nó không làm giảm tốc độ của các chiếc xe khác. Nhưng việc đi trên cầu mang tính loại trừ vì cơ quan quản lý cầu có thể ngăn cản không cho tất cả mọi người sử dụng nó. Truyền hình cáp cũng như vậy. Một khi tín hiệu đã được phát đi thì chi phí biên của việc mang tín hiệu đó đến với một người sử dụng tăng thêm bằng không. Nhưng có thể biến những tín hiệu phát đi có tính loại trừ bằng việc mã hóa tín hiệu và thu tiền giải mã để cho phép sử dụng các kênh của truyền hình cáp.

Một số hàng hóa không mang tính loại trừ nhưng mang tính cạnh tranh. Biển và sông hồ rộng không mang tính loại trừ, nhưng việc đánh bắt cá mang tính cạnh tranh vì nó gây ra chi phí cho những người khác, càng nhiều người đánh bắt thì càng còn lại ít cá cho những người khác. Công viên cũng mang tính cạnh tranh nhưng không có tính loại trừ.

Hàng hóa công cộng vừa không mang tính loại trừ vừa không mang tính cạnh tranh đem lại lợi ích cho mọi người với chi phí biên bằng không, và không ai có thể loại trừ khỏi việc sử dụng chúng. Một ví dụ kinh điển về hàng hóa công là quốc phòng. Quốc phòng không mang tính loại trừ, và như mọi người đều thấy, nó cũng không mang tính cạnh tranh vì chi phí biên của việc đảm bảo an ninh cho thêm một người dân bằng không. Pháo hoa đã đề cập ở trên cũng là một hàng hóa công cộng vì nó không mang tính loại trừ và không có tính cạnh tranh, nghĩa là rất khó thu tiền từ những người đi xem bắn pháo hoa về lợi ích mà họ được hưởng từ dịch vụ bắn pháo bông trong các ngày lễ lớn.

Danh mục các hàng hóa công cộng ít hơn nhiều so với số lượng các hàng hóa mà chính phủ cung cấp. Nhiều hàng hóa do chính phủ cung cấp có thể mang tính cạnh tranh, hoặc tính loại trừ trong tiêu dùng, hoặc cả hai... Ví dụ, giáo dục phổ thông mang tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Chí phí biên của việc cung cấp giáo dục cho thêm một trẻ em là dương vì những trẻ em khác sẽ ít được quan tâm hơn khi quy mô lớp tăng. Tương tự, việc thu học phí sẽ loại bỏ một số trẻ em khỏi việc đi học. Giáo dục công được các chính quyền địa phương cung cấp vì nó tạo ra ngoại tác tích cực, chứ không phải vì nó là hàng hóa công cộng.

Cuối cùng, chúng ta hãy xem xét việc quản lý một vườn quốc gia. Một phần người dân có thể bị loại trừ khỏi việc sử dụng vườn bằng việc quy định lệ phí vào cửa và phí cắm trại. Việc sử dụng vườn cũng mang tính cạnh tranh, khi việc sử dụng đã đông đúc thì có thêm một chiếc xe đi vào thăm quan vườn có thể làm giảm lợi ích của những người khác đang được nhận từ vườn.

Nhiệm vụ của nhà nước là cung cấp đầy đủ và chất lượng những hàng hóa mà thị trường không muốn và không thể cung cấp. Để người dân cảm thấy an toàn khi ra đường, có chỗ dạo chơi trong những ngày nghỉ, trẻ em có sân chơi để giải trí sau những buổi học mệt nhọc trên lớp, để có những nụ cười trên môi và niềm tự hào là công dân đất Việt.

Hành vi bất hợp lý

Trong kinh tế học truyền thống, một trong những giả thiết nhằm mục đích mô tả sự trao đổi hàng hóa trên thị trường là nguyên lý tính duy lý của các cá thể. Tính duy lý của con người có thể hiểu là các cá thể hành động bằng cách sử dụng một cách tốt nhất những nguồn lực có được và có tính đến những ràng buộc mà họ phải gánh chịu (1, trang 14). Điều này có thể hiểu con người có tính ích kỷ và họ chỉ tính đến lợi ích của riêng bản thân và các cá nhân có những lựa chọn thỏa mãn tối đa hay mang lại lợi ích lớn nhất.

Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại và kinh tế học mới, con người không hiếm có những hành động bất hợp lý gây ra hậu quả không tốt cho bản thân và xã hội. Ví dụ như hút thuốc, uống rượu quá mức, xả rác, tè bậy, khạc nhổ bừa bãi, văng tục và chửi thề nơi công cộng, bạo lực gia đình, hiếp dâm, giết người, trộm cắp, nhất là tham nhũng trong khu vực công…

Chính phủ cần có những hành lang pháp lý cụ thể và thiết thực hơn để ngăn cản những hành vi bất hợp lý của các cá nhân gây thiệt hại cho bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Nhất là hành vi tham nhũng trong các cơ quan công quyền.

Kết luận

Việc hài hòa và cân bằng chức năng của thị trường và quyền lực của nhà nước hay giữa lợi ích của giới kinh doanh và của xã hội là một vấn đề khó giải quyết trong một sớm một chiều trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng thể chế.

Chức năng kinh tế của Nhà nước rơi vào thể lưỡng cực, vừa bị căng ra diện rộng, khi can thiệp quá sâu và ôm đồm các chức năng của thị trường và doanh nghiệp, trong khi lại không có điều kiện tập trung để thực hiện tốt chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế.

Tài liệu tham khảo:

1. Pierre Cahuc (2015). Kinh tế học vi mô mới, NXB Tri thức, Hà Nội.

2. Tim Harford Mankiw G. (2003), Thám tử kinh tế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.

3. Mankiw N Grigory. (2015), Kinh tế học vi mô, NXB Cengage, Singapore..

4. Lê Thị Mai (2008), Xã hội học kinh tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Pindyck R, Rubinfeld D (2015), Kinh tế học vi mô, NXB Ðại học Kinh tế TP.HCM, TP.HCM.

6. Samuelson P. (2002), Kinh tế học, tập 1, NXB Thống kê, Hà Nội.

7. A.Sen (1998). Phát triển là quyền tự do, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

8. Michael Spence (2012), Sự hội tụ kế tiếp, NXB Trẻ, TP.HCM.

9. Steinemann, Apgar, Brown (2006), Kinh tế học vi mô dành cho quyết định công, NXB Thomson, South-Western, Bản dịch của chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.

10. http://www.thesaigontimes.vn/140524/Nam-2015-tien-luong-khu-vuc-DN-nha-nuoc-van-cao-nhat.html

(Tạp chí Ngân hàng số 21, tháng 10/2016)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng