Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trân trọng giới thiệu bài viết: "Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030" của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm.
aa

Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030
Tổng Bí thư Tô Lâm: Cần ý thức sâu sắc, chuẩn bị nhân sự không chỉ cho một kỳ đại hội

Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là đợt sinh hoạt chính trị to lớn, sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân mà còn là tiền đề để tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Cao hơn, chuỗi sự kiện này là một trong những yếu tố then chốt tạo nền tảng chính trị vững chắc đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, phồn vinh, thịnh vượng, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu và ước vọng của toàn dân tộc.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, Đại hội đảng bộ các cấp có vai trò dẫn dắt, định hướng, trụ cột, có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong toàn Đảng và toàn xã hội. Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ này có 03 nhiệm vụ trọng tâm, đó là: thảo luận, thông qua Văn kiện đại hội cấp mình và góp ý với dự thảo Văn kiện Đại hội cấp trên, Văn kiện Đại hội XIV của Đảng; lựa chọn nhân sự tham gia cấp uỷ các cấp; hoàn thiện nhân sự trong hệ thống cơ quan lãnh đạo của Đảng từ cấp cơ sở đến cấp Trung ương. Những nội dung trên đều là vấn đề "cốt tử", hệ trọng, liên quan đến vai trò lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; đến việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách, biện pháp lãnh đạo; quyết định sức mạnh nội bộ Đảng và hệ thống chính trị; đến toàn bộ hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp trong nhiệm kỳ tới cũng như sức mạnh của toàn dân tộc trong tương lai.

Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo bằng đường lối. Văn kiện Đại hội các cấp là sự cụ thể hóa quan điểm, định hướng chỉ đạo của Đảng thành hệ thống những giải pháp có sức sống từ thực tiễn ngành, địa phương, cơ quan đơn vị, địa bàn, lĩnh vực được phân công nhiệm vụ; có giá trị định hướng sự lãnh đạo, dẫn đường, khắc phục triệt để tồn tại, bất cập, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, tháo gỡ triệt để điểm nghẽn, rào cản, huy động tối đa sự tham gia của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sức mạnh to lớn để đạt và vượt mục tiêu đã định, góp phần hoàn thành thắng lợi những mục tiêu, chỉ tiêu, kế hoạch mà Trung ương hoặc đảng bộ cấp trên đã đề ra. Bảo đảm chất lượng tham gia ý kiến với Văn kiện Đại hội của cấp mình, dự thảo Văn kiện cấp trên trực tiếp, của cấp trên cũng như dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, nhất là đề xuất những giải pháp bắt nguồn từ nhịp sống cơ sở, từ hơi thở của đời sống xã hội của từng địa phương, thậm chí từng làng xã, cộng đồng và cá nhân tạo động lực, khí thế, sức lan toả mạnh mẽ trong cả nước là mục tiêu mà các cấp ủy cần đạt được.

Nhân sự cấp ủy cũng chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, chủ trì, chủ chốt ở từng bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; là "cầu nối" giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, là lực lượng lãnh đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, quyết định việc đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đi vào cuộc sống; đồng thời, nắm bắt tình hình đề xuất với Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách phù hợp nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Bí thư, Phó bí thư, cấp ủy viên luôn là nhân tố quan trọng, quyết định kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, sự ổn định, phát triển, vững mạnh của địa phương, cơ quan, đơn vị cả trước mắt và lâu dài.

Để tổ chức thành công Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, cấp ủy các cấp cần bám sát nội dung Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/06/2024 của Bộ Chính trị "về tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng" và kết luận số 118 KL/TW ngày 18/01/2025 của Bộ Chính trị về sửa đổi, bổ sung Chỉ thị 35 nêu trên. Ngoài ra, Ban Tổ chức Trung ương, Ủy Ban kiểm tra Trung ương, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Văn phòng Trung ương đến nay đã có 21 văn bản hướng dẫn liên quan đến Tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp, các đồng chí coi đó là "sách giáo khoa" để tổ chức triển khai thực hiện.

Trong bối cảnh chúng ta tích cực triển khai Nghị quyết số 18 của Bộ Chính trị về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị, các cấp ủy cần nhanh chóng kiện toàn tổ chức, đưa guồng máy vào hoạt động và tiếp tục tinh gọn bộ máy bên trong của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Bốn Đảng bộ mới được thành lập là Đảng bộ các cơ quan Đảng Trung ương, Đảng bộ Chính phủ, Đảng bộ Quốc hội, Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc; một số Ban Đảng trung ương mới được cơ cấu lại; các đảng bộ, chi bộ mới của một số bộ, các tỉnh, thành phố... căn cứ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy được quy định sớm ổn định tổ chức và duy trì hoạt động theo đúng điều lệ Đảng và những quy định mới của Ban chấp hành trung ương trong điều hành hoạt động cũng như trong qua trình tổ chức Đại hội đảng bộ, chi bộ.

Để tiến hành tốt Đại hội Đảng bộ các cấp, các cấp ủy cần tập trung vào 03 vấn đề chính sau đây:

Thứ nhất, cần thống nhất nhận thức, những thành tựu của đất nước đạt được sau 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt sau 40 năm đổi mới là rất vĩ đại, rất đáng trân trọng, tự hào. Nhưng đất nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mà toàn Đảng, toàn Dân, toàn quân ta phải nỗ lực đoàn kết, quyết tâm hơn nữa để vượt qua, trong đó Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 có trách nhiệm phải tham gia và là lực lượng nòng cốt giải quyết hiệu quả những khó khăn, thách thức này. Nhiều điểm nghẽn, rào cản, nút thắt về thể chế tồn tại lâu năm vẫn chưa được tháo gỡ, loại bỏ. Nguy cơ "dậm chân tại chỗ", nguy cơ tụt hậu, nhất là tụt hậu về kinh tế, về khoa học, công nghệ và rơi vào "bẫy thu nhập trung bình" còn tiềm tàng. Gần đây, thiên tai, bão lũ và nhiều hậu quả của biến đổi khí hậu, môi trường liên tiếp xảy ra đã để lại những hậu quả nặng nề đối với nhiều địa phương. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được khắc phục triệt để; tình trạng "nói không đi đôi với làm; nói một đằng, làm một nẻo", "đánh trống bỏ dùi", "lạc quan tếu", báo cáo không trung thực, cán bộ thiếu năng lực, thiếu gương mẫu, cục bộ, bè phái... đều là những "miếng mồi" để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tuyên truyền chống phá, để thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ nhằm làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, Chế độ ta. Những nguy cơ, thách thức này đe dọa trực tiếp đến quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Định vị chính xác "nguy và cơ", đặt rõ mục tiêu vươn tới để thống nhất cao về quyết tâm chính trị, với những bước đi, hành động đúng, trúng, quyết liệt để giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc, khắc phục triệt để điểm nghẽn, rào cản, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế từng ngành, lĩnh vực, địa phương.

Thứ hai, về xây dựng Văn kiện và tham gia ý kiến vào Văn kiện đại hội cấp trên, Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ các cấp cần bám sát tinh thần dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV; tập trung phân tích, đánh giá khách quan việc thực hiện nghị quyết đại hội vừa qua; phản ánh đầy đủ, sát thực tình hình và thực tiễn phát triển của các địa phương, ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị. Làm rõ những thành tựu đổi mới, nổi bật trong sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng; trên tinh thần nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, cần thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại, nhất là những điểm nghẽn, nút thắt đối với sự phát triển chưa được tháo gỡ, khắc phục. Phân tích sâu sắc nguyên nhân của thành tựu và hạn chế, nhất là về đường lối, chủ trương, biện pháp, giải pháp tại đơn vị, địa phương; về khâu tổ chức thực hiện; về tính chất quyết định của nhân tố con người và công tác cán bộ; về sự tham gia, đồng thuận, ủng hộ của nhân dân. Chú trọng tổng kết những mô hình mới, cách làm hay, rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị phục vụ phát triển. Chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo sát tình hình; phân tích thấu đáo những vấn đề nổi lên đang tác động trực tiếp đến các ngành, các cấp, các địa phương, các cơ quan, đơn vị; xác định rõ tiềm năng, lợi thế phát triển, với phương châm "Tầm nhìn quốc gia, hành động địa phương, đồng hành của doanh nghiệp, trách nhiệm của người dân", đề ra các định hướng, các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá, đối sách phù hợp; tất cả vì sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước với mục tiêu cuối cùng là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân.

Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cần được xây dựng thống nhất với Báo cáo chính trị. Không để xảy ra tình trạng sao chép, rập khuôn báo cáo một cách máy móc hoặc kiểm điểm qua loa, đại khái, hình thức cho có. Việc kiểm điểm cấp uỷ cần bám sát quy chế làm việc, chương trình hành động, kết quả lãnh đạo tổ chức thực hiện nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên và tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan, đơn vị; kết quả thực hiện các nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định những điều đảng viên không được làm; Quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Lấy kết quả đầu ra cụ thể của công tác lãnh đạo, chỉ đạo và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị cùng với sự hài lòng của quần chúng, nhân dân làm tiêu chí đánh giá. Cần thẳng thắn, khách quan chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, mức độ khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém đã được phát hiện, trên tinh thần tự phê bình và phê bình, không nể nang, né tránh. Nhận diện, làm rõ những nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, để từ đó rút kinh nghiệm, đề ra kế hoạch, lộ trình, biện pháp hiệu quả nhằm sửa chữa, khắc phục trong nhiệm kỳ 2025 - 2030. Báo cáo kiểm điểm cần gắn trách nhiệm của tập thể với trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu, người được phân công phụ trách các lĩnh vực, địa bàn; coi đây là cơ sở quan trọng để đánh giá cấp uỷ viên trong nhiệm kỳ và giới thiệu nhân sự cho khóa mới. Cần nhận thức rõ, việc thực hiện kiểm điểm là cơ hội để tăng cường hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết, thống nhất, giúp xây dựng môi trường làm việc tốt hơn. Tuyệt đối không được lợi dụng việc kiểm điểm để đấu đá nội bộ, tìm cách triệt hạ, làm mất uy tín của cán bộ, đảng viên.

Thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng và văn kiện đại hội đảng bộ cấp trên trực tiếp theo hướng thực chất, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, tránh góp ý theo kiểu hình thức. Căn cứ điều kiện cụ thể của tổ chức đảng và đại hội để định hướng, gợi mở những nội dung cốt lõi, những vấn đề mới, những vấn đề có nhiều phương án cho thảo luận; lựa chọn hình thức trao đổi, góp ý cho phù hợp, từ đó tiếp nhận, tiếp thu được nhiều ý kiến tâm huyết, có chất lượng. Trong quá trình thảo luận, bàn bạc, cần hết sức cầu thị, lắng nghe, tôn trọng ý kiến lẫn nhau, nhất là đối với những vấn đề mới, vấn đề khó, đồng thời kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, không được phép ngả nghiêng, dao động; luôn tỉnh táo, cảnh giác với mọi âm mưu lợi dụng việc góp ý để xuyên tạc, chống phá.

Thứ ba, đặc biệt chú trọng chuẩn bị nhân sự Đại hội. Cần ý thức sâu sắc, chuẩn bị nhân sự không chỉ cho một kỳ đại hội; xa hơn, đó là sự chuẩn bị nhân sự cho tương lai phát triển của tổ chức đảng, sự phát triển của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị; rộng hơn, đó là vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước, của dân tộc. Đây là công việc mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm theo dõi; đây cũng là việc mà các phần tử xấu, cơ hội chính trị tìm mọi cách tác động, tung tin thất thiệt, xuyên tạc hòng chia rẽ nội bộ. Về cơ cấu cấp uỷ, phải bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp uỷ đối với những địa bàn, lĩnh vực quan trọng; coi trọng chất lượng, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn; không nhất thiết địa phương, ban, ngành nào cũng phải có người tham gia cấp uỷ; cấp uỷ viên được lựa chọn phải thật sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là đại diện cho đội ngũ đảng viên và được quần chúng tin yêu, tín nhiệm; các cấp ủy viên phải xứng tầm là thành viên "bộ tham mưu" chiến đấu và phải đoàn kết, thống nhất cao về ý chí và hành động, thật sự trong sạch, vững vàng, trung kiên. Cần đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc đề xuất, giới thiệu nhân sự, nhất là người kế nhiệm theo các quy định mới của Trung ương. Chuẩn bị nhân sự phải kết hợp hài hòa giữa nguồn nhân sự tại chỗ với việc điều động, luân chuyển cán bộ từ nơi khác đến. Đối với các địa phương, đơn vị có cơ cấu cấp uỷ nhưng chưa chuẩn bị được nhân sự tại chỗ, thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, điều động nhân sự từ nơi khác có đủ tiêu chuẩn, điều kiện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị để giới thiệu, chỉ định tham gia cấp uỷ hoặc bổ sung sau đại hội. Phấn đấu đạt tỉ lệ cấp uỷ viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ; phấn đấu tỉ lệ cán bộ trẻ từ 10% trở lên, tỉ lệ cấp uỷ viên là người dân tộc thiểu số bảo đảm phù hợp với đặc điểm, cơ cấu dân tộc và điều kiện cụ thể từng địa phương, cơ quan, đơn vị.

Bên cạnh thực hiện đúng điều lệ Đảng và các quy định hiện hành, công tác nhân sự của các ủy Đảng phải được tiến hành bài bản, khoa học, nhân văn. Phải chuẩn bị kỹ càng cả nhân sự cấp uỷ và đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên. Việc giới thiệu, lựa chọn nhân sự phải bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện; dựa trên cơ sở quy hoạch, quy chế, quy định, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch; dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ chuyên môn, uy tín, sản phẩm và hiệu quả công tác cụ thể; tuyệt đối không lựa chọn cán bộ không được quần chúng nhân dân tín nhiệm, cũng không giới thiệu những cán bộ lãnh đạo "dĩ hòa vi quý", "tròn vo" để lấy phiếu bầu. Nhân sự tham gia cấp uỷ, các nhân sự được lựa chọn đi dự đại hội cấp trên phải là tinh hoa của Đảng, thật sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, bản lĩnh, trí tuệ; có tầm nhìn và tư duy chiến lược; có trách nhiệm cao, có tư duy đổi mới, biết nắm bắt cơ hội, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, không né tránh, trì trệ, thụ động trước những vấn đề mới phát sinh; có năng lực thực tiễn, khả năng lãnh đạo, quản lý; mạnh dạn, sáng tạo trong đóng góp ý kiến, để giúp đại hội đề ra được các quyết sách đúng đắn đáp ứng những yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Công tác nhân sự đại hội phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán theo hướng dẫn của Trung ương; tránh cách làm giản đơn, tuỳ tiện, vô nguyên tắc, cài cắm "quân xanh, quân đỏ" hoặc máy móc, cứng nhắc, xa rời thực tiễn; phải bảo đảm lựa chọn được những người tốt nhất, người xứng đáng nhất, không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài, đủ điều kiện, tiêu chuẩn, đồng thời kiên quyết chống các biểu hiện cơ hội, tham vọng quyền lực, vận động cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm, tư tưởng cục bộ, địa phương, thân quen. Cán bộ là cái gốc của mọi vấn đề cho nên trong quá trình lựa chọn nhân sự bên cạnh việc phát hiện đúng- trúng thì cố gắng không bỏ sót nhân tài bởi không tìm chọn, sử dụng nhân tài là sự lãng phí về tài nguyên và tiềm năng con người.

Quá trình chuẩn bị, tổ chức Đại hội, đặc biệt ở các Đảng bộ mới thành lập, kiện toàn, cần giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc "tập trung dân chủ", "đoàn kết thống nhất", "tự phê bình và phê bình"; quán triệt các nguyên tắc kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển để chuẩn bị thật nghiêm túc, chu đáo, toàn diện các nội dung đại hội, vừa tập trung chuẩn bị cho đại hội, vừa lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị. Tổ chức đại hội theo hướng thiết thực, tiết kiệm, tránh phô trương, lãng phí, bảo đảm trang trọng, ý nghĩa; gắn với đổi mới cách thức xây dựng, ban hành, quán triệt nghị quyết; tăng cường trao quyền và uỷ quyền, giảm thiểu các ban bệ và đầu mối trung gian; phát huy sự chủ động, gương mẫu của cán bộ, đảng viên và sự tham gia đóng góp, ủng hộ tích cực của quần chúng nhân dân. Chủ động, tích cực làm tốt công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền để tạo sự thống nhất trong toàn đảng bộ và sự đồng thuận trong tập thể quần chúng, nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với tổ chức cơ sở đảng. Tạo điều kiện và môi trường thật tốt để phát huy trí tuệ và sự tham gia của các tầng lớp nhân dân trong xây dựng các văn kiện và công tác cán bộ, góp phần tích cực, có hiệu quả vào thành công của đại hội, sớm đưa nghị quyết đại hội Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người dân./.

Tô Lâm
Theo baochinhphu.vn

Tin bài khác

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Trong bối cảnh không gian mạng trở thành phần tất yếu của đời sống xã hội, việc xây dựng “thế trận số” vững chắc và chủ động làm chủ truyền thông số là yêu cầu chiến lược để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và lan tỏa các giá trị đúng đắn, tích cực trong xã hội.
Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển bùng nổ của công nghệ, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đối diện với thách thức chưa từng có từ những “cơn bão” thông tin sai lệch, xuyên tạc trên môi trường số.
Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Trong kỷ nguyên số, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp thiết và mang tính chiến lược hơn, đòi hỏi tư duy đổi mới, cách tiếp cận hệ thống, gắn kết giữa “xây” và “chống”, giữa “thế trận lòng dân” và “thế trận số”.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô