Thực trạng nhà ở xã hội hiện nay và một số giải pháp để phát triển

Thị trường tài chính
Nhà ở xã hội (NƠXH) là quỹ nhà ở của một quốc gia, địa phương với giá cả, diện tích và tiện ích phù hợp cho đa số dân cư và người lao động có thu nhập trung bình trong xã hội trở xuống, có thể thuê, mua, thuê mua hoặc bán trả góp... Theo Luật Nhà ở năm 2014, NƠXH là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định...
aa

Nhà ở xã hội (NƠXH) là quỹ nhà ở của một quốc gia, địa phương với giá cả, diện tích và tiện ích phù hợp cho đa số dân cư và người lao động có thu nhập trung bình trong xã hội trở xuống, có thể thuê, mua, thuê mua hoặc bán trả góp... Theo Luật Nhà ở năm 2014, NƠXH là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định...

NƠXH gồm các căn hộ chung cư do Nhà nước xây dựng làm NƠXH; các dự án tư nhân xây dựng rồi bán lại cho quỹ NƠXH theo các chính sách đặc thù như giảm thuế giá trị gia tăng, giảm thuế đất, dự án được cấp đất...; các dự án nhà ở thương mại phải bán lại một số căn hộ, hoặc xây dựng trên 20% diện tích đất cho quỹ NƠXH địa phương theo luật hiện hành.

1. Tình hình cung cầu trong phát triển NƠXH

Phát triển NƠXH có ý nghĩa kinh tế và xã hội, không chỉ đáp ứng nhu cầu nhà ở của hàng triệu hộ gia đình cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động làm việc tại các cơ quan, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các nhà máy, công trường và các hộ dân nằm trong diện giải phóng mặt bằng; cặp gia đình trẻ "tách hộ" và người dân gắn với quá trình dịch chuyển địa điểm làm việc, nơi công tác, học tập, chữa bệnh và cải thiện không gian sống của mình..., mà còn góp phần bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và kích cầu tiêu dùng của người dân và doanh nghiệp; tạo động lực phát triển liên ngành và toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội trên cả nước và mỗi địa phương, trước mắt và lâu dài, vĩ mô và vi mô. Quy mô, chất lượng NƠXH còn là thước đo sự phát triển hệ thống an sinh xã hội và nâng cao chất lượng sống, quy định vẻ đẹp kiến trúc, bộ mặt cảnh quan của một địa phương và toàn thể quốc gia, đồng thời khẳng định trình độ quản lí xã hội của Nhà nước và chính quyền địa phương các cấp và quyền công dân theo tinh thần Chiến lược nhà ở quốc gia (thông qua tháng 11/2011), Nghị định số 188/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ về phát triển và quản lý NƠXH, cũng như được khẳng định trong Hiến pháp và Luật Nhà ở năm 2014...

Theo Bộ Xây dựng, từ năm 2016 đến nay, chính sách hỗ trợ nhà ở cho người thu nhập thấp tại đô thị và công nhân lao động được thực hiện theo Luật Nhà ở và các văn bản chỉ đạo của Chính phủ. Đến nay, cả nước đã có 1.040 dự án đầu tư xây dựng NƠXH, bao gồm 507 dự án NƠXH độc lập với tổng diện tích đất hơn 1.375 héc-ta và 533 dự án được xây dựng trên quỹ đất 20% của các dự án nhà ở thương mại, dự án phát triển đô thị, với diện tích đất hơn 1.983 héc-ta. Trong đó, đã hoàn thành 248 dự án với quy mô xây dựng khoảng hơn 103.500 căn, tổng diện tích hơn 5,1 triệu mét vuông. Hiện tại đang tiếp tục triển khai 264 dự án, quy mô xây dựng khoảng 216.500 căn, với tổng diện tích khoảng 10,8 triệu mét vuông; còn lại 512 dự án chưa triển khai hoặc đang làm thủ tục đầu tư xây dựng.

Tuy vậy, Bộ Xây dựng nhìn nhận, với tổng diện tích hơn 5,1 triệu mét vuông NƠXH đã xây dựng mới chỉ đạt được khoảng 41,4% so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 30/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ (12,5 triệu mét vuông nhà ở).

Xét về số lượng, tính từ năm 2009 đến nay, cả nước có thêm khoảng 5.000 dự án nhà ở thương mại, nhưng chỉ có 533 dự án dành quỹ đất 20% để xây dựng NƠXH, chiếm khoảng 10%. Phần còn lại các dự án đều thực hiện phương án nộp tiền chuyển giao sử dụng quỹ đất 20% này để được "toàn quyền" khai thác thương mại trên dự án đã được cấp phép.

Năm 2022, cả nước có 9 dự án NƠXH được cấp phép mới với quy mô 5.526 căn hộ; 114 dự án với 6.196 căn hộ đã hoàn thành xây dựng; 27 dự án với 8.245 căn hộ đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai. Cũng trong năm 2022, cả nước có 02 dự án nhà ở công nhân được cấp phép mới với quy mô 1.729 căn hộ; 01 dự án với 32 căn hộ đã hoàn thành xây dựng; 04 dự án với 2.328 căn hộ đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai.

Tính đến đầu năm 2023, cả nước đã hoàn thành 301 dự án NƠXH khu vực đô thị, quy mô xây dựng khoảng 155.800 căn, với tổng diện tích hơn 7,78 triệu mét vuông; đang tiếp tục triển khai (bao gồm các dự án đã được chấp thuận đầu tư và đang triển khai đầu tư xây dựng) 401 dự án, với quy mô xây dựng khoảng 454.360 căn, với tổng diện tích khoảng 22,72 triệu mét vuông, giúp cho hàng trăm nghìn người thu nhập thấp, công nhân có chỗ ở.

Tuy nhiên, theo Bộ Xây dựng, với số lượng nhà ở công nhân đã hoàn thành là 2,7 triệu mét vuông (đáp ứng khoảng hơn 340.000 người lao động) thì mới đạt khoảng 40% mục tiêu về nhà ở công nhân khu công nghiệp đến năm 2020), hầu hết số lượng công nhân còn lại hiện nay chưa có chỗ ở ổn định, đang phải ở tại các khu nhà trọ do người dân tự đầu tư xây dựng. Cập nhật đến đầu năm 2023 từ hơn 40 địa phương, thì nhu cầu NƠXH cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp trong giai đoạn 2021 - 2030 khoảng 2,6 triệu căn hộ và mục tiêu hoàn thành cho giai đoạn này là khoảng 1,8 triệu căn.

NƠXH không cần nhiều vốn và kĩ thuật cao, thiết kế cầu kì, tiện nghi, mà cần số lượng lớn, đa dạng quy mô diện tích, tiện ích và giá cả phải chăng, phù hợp nhu cầu và túi tiền người dân; tuy nhiên, không vì thế mà coi nhẹ cả trong quản lí lẫn triển khai thi công các dự án NƠXH. Vì nếu coi nhẹ hay buông lỏng quản lí và chạy theo lợi nhuận thuần túy, thì sẽ dẫn đến sự tiếp tục gia tăng tình trạng không chỉ thiếu hụt nguồn cung mà còn gia tăng tình trạng mất cân đối, thiếu NƠXH cho thuê và tình trạng thổi giá do đầu cơ và trung gian, gây lo ngại cả về khủng hoảng thiếu và bong bóng bất động sản như những năm trước. Đặc biệt, quyền lợi, cuộc sống và niềm tin của người dân còn bị vi phạm thô bạo và nghiêm trọng khi chất lượng NƠXH xuống cấp nhanh chóng, tình trạng chủ đầu tư nợ tiền sử dụng đất tràn lan khiến người mua nhà bị ảnh hưởng cả về thời gian nhận nhà và điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà... Vì vậy, việc phát triển NƠXH cần thực chất và sát thực tế hơn.

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thể hiện sự nỗ lực trong việc tạo dựng NƠXH cho các đối tượng có thu nhập thấp gặp khó khăn về chỗ ở, cụ thể: Luật Nhà ở năm 2014; Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lí NƠXH; Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP về phát triển và quản lí NƠXH; Thông tư số 09/2021/TT-BXD ngày 16/8/2021 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP và Nghị định số 49/2021/NĐ-CP. Theo đó, Điều 49 Luật Nhà ở năm 2014 đã quy định 10 nhóm đối tượng được hưởng chính sách về NƠXH, trong đó có người thu nhập thấp và cán bộ, công chức, viên chức. Người thu nhập thấp được mua, thuê mua NƠXH nếu đáp ứng các điều kiện về nhà ở, cư trú, thu nhập (khoản 1, Điều 51 Luật Nhà ở năm 2014). Ngoài ra, người thu nhập thấp được hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi của Nhà nước thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội, tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định để xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở (khoản 1 và 4, Điều 50 Luật Nhà ở năm 2014).

Theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 49/2021/NĐ-CP), NƠXH phải được bán, cho thuê, thuê mua theo đúng đối tượng, cụ thể bao gồm: Người có công với cách mạng, hộ gia đình nghèo và cận nghèo tại khu vực nông thôn; hộ gia đình tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu; người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo, người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp; các đối tượng làm cho quân đội, cán bộ, công chức, viên chức, đối tượng đã trả lại nhà ở công vụ, học sinh, sinh viên các học viện, trường đại học, cao đẳng, dạy nghề; học sinh trường dân tộc nội trú công lập, hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và theo quy định của pháp luật mà chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở.

NƠXH phải được bán, cho thuê, thuê mua theo các điều kiện quy định và phải đảm bảo mỗi hộ gia đình, cá nhân chỉ được giải quyết hỗ trợ NƠXH một lần.

Đối với việc bán, cho thuê, cho thuê mua NƠXH mà nhà ở này có nguồn gốc xây dựng là được đầu tư bằng ngân sách nhà nước thì việc bán, cho thuê, cho thuê thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lí, sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước. Người thuê NƠXH không được cho thuê lại hoặc chuyển nhượng nhà ở dưới mọi hình thức trong thời gian thuê nhà theo hợp đồng đã kí với bên cho thuê. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền phát hiện việc cho thuê lại hoặc chuyển nhượng nhà ở bất hợp pháp thì các cá nhân thuê NƠXH sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật…

2. Ngành Ngân hàng đang tích cực triển khai các chương trình cho vay NƠXH

Phát triển NƠXH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội được Quốc hội, Chính phủ rất quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển, trong đó có chính sách hỗ trợ tín dụng NƠXH. Thực hiện các chủ trương của Chính phủ về phát triển NƠXH, thời gian qua, ngành Ngân hàng đã và đang tích cực triển khai trong toàn ngành các hoạt động cho vay gói tín dụng NƠXH.

Triển khai Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã giao Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) huy động 15 nghìn tỉ đồng thông qua phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh để cho vay NƠXH theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP. Đến ngày 17/5/2023, dư nợ cho vay NƠXH theo Nghị quyết 11/NQ-CP đạt 5.144 tỉ đồng; qua đó, giúp hơn 14,5 nghìn người thu nhập thấp có "an cư, lạc nghiệp" và góp phần vào thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Tiếp đó, ngày 01/4/2023, NHNN cũng đã có Công văn số 2308/NHNN-TD gửi các ngân hàng thương mại (NHTM), NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố về việc triển khai chương cho vay NƠXH, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33/NQ-CP của Chính phủ. Theo đó, tại Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/03/2023 về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững, Chính phủ giao NHNN chủ trì triển khai Chương trình tín dụng khoảng 120 nghìn tỉ đồng để chỉ đạo các NHTM, trong đó chủ lực là 04 NHTM nhà nước gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank), cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án NƠXH, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ vay với lãi suất trong thời gian ưu đãi thấp hơn 1,5 - 2% so với lãi suất cho vay trung dài hạn VND bình quân của các NHTM nhà nước (bao gồm Agribank, BIDV, Vietcombank, VietinBank) trên thị trường và các NHTM ngoài nhà nước có đủ điều kiện với các gói tín dụng cụ thể trong từng thời kì. Nhằm thực hiện nhiệm vụ được giao trên cơ sở ý kiến thống nhất và các văn bản tham gia của 04 NHTM nhà nước, NHNN hướng dẫn một số nội dung và yêu cầu các NHTM, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố khẩn trương triển khai thực hiện Chương trình tín dụng 120 nghìn tỉ đồng này.

Thời hạn giải ngân của Chương trình theo Công văn số 2308/NHNN-TD đến khi doanh số giải ngân đạt 120 nghìn tỉ đồng nhưng không quá ngày 31/12/2030; thời gian ưu đãi đối với Chủ đầu tư áp dụng mức lãi suất cho vay trong thời gian ưu đãi là 3 năm kể từ ngày giải ngân nhưng không quá thời hạn cho vay tại thỏa thuận cho vay ban đầu, đối với người mua nhà áp dụng mức lãi suất cho vay trong thời gian ưu đãi là 5 năm kể từ ngày giải ngân nhưng không quá thời hạn cho vay tại thỏa thuận cho vay ban đầu; lãi suất cho vay ưu đãi áp dụng đến hết ngày 30/6/2023 đối với chủ đầu tư là 8,7%/năm, đối với người mua nhà là 8,2%/năm.

Hiện tại đã có 24 dự án NƠXH được công bố và các ngân hàng đã bắt đầu triển khai cho vay gói tín dụng 120 nghìn tỉ đồng, gồm: 15 dự án NƠXH của Bắc Giang, Trà Vinh và Tây Ninh, trong đó có 5 dự án đã được cấp phép xây dựng; 9 dự án NƠXH của ba địa phương là Bình Định, Phú Thọ và Bà Rịa - Vũng Tàu. Một số ngân hàng như BIDV, Agribank cũng đã bắt đầu triển khai cho vay gói tín dụng này. Đặc biệt, Agribank đang triển khai Chương trình cho vay NƠXH với hạn mức cho vay 30 nghìn tỉ đồng, lãi suất ưu đãi áp dụng đến hết ngày 30/6/2023 đối với chủ đầu tư là 8,7%/năm và đối với người mua nhà là 8,2%/năm. Kể từ ngày 01/7/2023, định kỳ 06 tháng/lần, Agribank sẽ thông báo lãi suất cho vay trong thời gian ưu đãi triển khai chương trình. Một điểm đáng chú ý với khách hàng là người mua nhà, ngoài hạn mức vay theo quy định, nếu có tài sản bảo đảm bổ sung, khách hàng được áp dụng mức vay tối đa bằng 85% tổng mức đầu tư của phương án1.


2. Một số khó khăn, tồn tại

Thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định cụ thể về chính sách phát triển và quản lí NƠXH. Trong đó, có quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chí lựa chọn chủ đầu tư dự án xây dựng NƠXH, góp phần minh bạch hóa thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân thực hiện.

Mặc dù vậy, quá trình triển khai thực hiện vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc nên chưa hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư tham gia phát triển NƠXH như về đối tượng tham gia, thụ hưởng; trình tự thủ tục đầu tư xây dựng, quản lí mua - bán; thời gian thực hiện thủ tục đầu tư bị kéo dài, không gian sáng tạo, phát triển NƠXH còn chật hẹp so với yêu cầu; chưa tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lí để phát triển NƠXH.

Mặt khác, việc bố trí nguồn vốn ưu đãi cho vay phát triển NƠXH còn gặp nhiều khó khăn và chưa có cơ chế huy động các nguồn lực hợp tác công tư một cách hiệu quả. Nhiều địa phương, nhất là người đứng đầu, nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong khu công nghiệp chưa quan tâm đến phát triển NƠXH; chưa đưa các chỉ tiêu phát triển nhà ở, đặc biệt là chỉ tiêu phát triển NƠXH, nhà ở cho công nhân vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm của địa phương...

Bên cạnh đó, công tác triển khai Chương trình tín dụng NƠXH vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc như liên quan đến nguồn vốn, tiến độ giải ngân, cơ chế chính sách... Nguyên nhân là do trong quá trình triển khai thực hiện, nguồn cung nhà ở xã hội tại các địa phương còn hạn chế, nhiều công trình chưa khởi công theo kế hoạch; đối tượng có nhu cầu vay vốn nhưng qua rà soát không đủ điều kiện vay.

3. Đề xuất một số giải pháp cần thiết để phát triển NƠXH

Tại Dự án sửa đổi Luật Nhà ở năm 2014, Bộ Xây dựng đã đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về quỹ đất dành để phát triển NƠXH; thủ tục đầu tư xây dựng dự án NƠXH; các chính sách ưu đãi chủ đầu tư, chính sách về nguồn vốn cho phát triển NƠXH... nhằm thu hút các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia phát triển NƠXH; đặc biệt là đề xuất về chính sách phát triển nhà lưu trú công nhân khu công nghiệp nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở phục vụ cho công nhân, người lao động, góp phần thực hiện Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ NƠXH cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030 nói riêng và công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong thời kì mới.

Để tháo gỡ khó khăn và tạo động lực phát triển NƠXH cần sự đồng bộ các giải pháp, theo đó:

Thứ nhất, tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch để khắc phục tình trạng phát triển bất động sản một cách tự phát, lệch pha cung - cầu như những năm vừa qua; có phương án tích cực xử lí tình trạng các dự án bỏ hoang, khó thu hồi, ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung, khả năng quỹ đất xây NƠXH nói riêng; khuyến khích chuyển đổi từ căn hộ diện tích lớn sang diện tích nhỏ, dự án chung cư thương mại sang NƠXH, chung cư mini; phát triển NƠXH tại các địa phương gắn với phát triển thị trường bất động sản nhà ở, phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở trong từng giai đoạn của địa phương và tuân thủ pháp luật về nhà ở, quy hoạch, kế hoạch do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm đồng bộ về hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội, phù hợp với điều kiện của các địa phương.

Các địa phương xây dựng, điều chỉnh, bổ sung Chương trình phát triển nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở, phù hợp với Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 2161/QĐ-TTg ngày 22/12/2021) làm cơ sở để chấp thuận đầu tư; đưa các chỉ tiêu phát triển nhà ở, đặc biệt là chỉ tiêu phát triển NƠXH, nhà ở cho công nhân vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm.

Thứ hai, Nhà nước cần rà soát và bổ sung các chính sách ưu đãi phát triển NƠXH, như: Tiếp tục miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; giảm 50% thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp; chi phí mua hoặc thuê nhà ở cho công nhân được tính là chi phí hợp lí trong giá thành sản xuất khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp; được dành 20% tổng diện tích đất ở trong phạm vi dự án NƠXH để đầu tư xây dựng nhà ở thương mại; hỗ trợ đầu tư hạ tầng kĩ thuật trong và ngoài dự án; nới lỏng điều kiện cho các đối tượng được mua, thuê NƠXH, bao gồm cả người lao động di cư và các doanh nghiệp có nhu cầu về NƠXH cho người lao động của mình tại các khu công nghiệp... Rút ngắn thủ tục hành chính về lập, phê duyệt dự án, giao đất, cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, thủ tục đầu tư xây dựng… để hỗ trợ, khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, uy tín trong lĩnh vực bất động sản khẩn trương triển khai đầu tư xây dựng dự án NƠXH.

Thứ ba, tiếp tục tăng cường hỗ trợ tín dụng khuyến khích phát triển NƠXH cả về tổng cung và về tổng cầu. Có thể thấy, nhu cầu về NƠXH và tín dụng phát triển NƠXH là rất lớn. Tín dụng NƠXH có ý nghĩa quan trọng cho cả nhà đầu tư và người mua nhà. Do vậy, cần mở rộng quy mô, kéo dài thời hạn và nới lỏng điều kiện, đối tượng được cho vay tín dụng ưu đãi lãi suất thấp áp dụng theo Quyết định số 486/QĐ-TTg ngày 10/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ về mức lãi suất cho vay ưu đãi tại NHCSXH áp dụng đối với các khoản vay có dư nợ để mua, thuê mua NƠXH, xây dựng mới hoặc cải tạo sửa chữa nhà để ở. Trước mắt, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải ngân gói tín dụng 120 nghìn tỉ đồng hỗ trợ phát triển NƠXH được huy động từ nguồn vốn của 04 NHTM nhà nước, thời hạn giải ngân đến hết năm 2030.

Thứ tư, giảm giá NƠXH trên cơ sở giảm bớt các khâu trung gian, tiết kiệm chi phí kinh doanh; đồng thời, bảo đảm chất lượng NƠXH để kích cầu và bảo vệ quyền lợi người có thu nhập thấp và duy trì các động lực tích cực thúc đẩy thị trường này.

Thứ năm, sớm xây dựng và hoàn thiện quy định về phát triển các khu nhà trọ với quy chuẩn, điều kiện về không gian, vệ sinh và môi trường phù hợp, ngày càng văn minh. Sớm quy định một đầu mối quản lí thống nhất ở các địa phương về vấn đề này.

Phát triển NƠXH, nhà ở công nhân là một trong những nội dung quan trọng của chính sách phát triển kinh tế - xã hội; là trách nhiệm, nghĩa vụ, đạo đức của cả hệ thống chính trị, của những người làm nhiệm vụ quản lí nhà nước, của doanh nghiệp và của người dân, nhất là những người đứng đầu các bộ, ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố. Nhà nước cần khuyến khích các thành phần kinh tế, bao gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia tích cực, hiệu quả hơn trong phát triển NƠXH cho công nhân, người lao động theo cơ chế thị trường, đồng thời có chính sách để hỗ trợ về nhà ở cho các đối tượng người thu nhập thấp đô thị, công nhân khu công nghiệp về nhà ở nhằm góp phần ổn định chính trị, bảo đảm an sinh xã hội.

Đặc biệt, cần cho phép Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được tham gia đầu tư xây dựng NƠXH, đồng thời là chủ thể đầu tư xây dựng nhà lưu trú cho công nhân và các thiết chế công đoàn tại khu công nghiệp theo hướng Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chủ trì, phối hợp với doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp hoặc doanh nghiệp có chức năng kinh doanh bất động sản để đầu tư xây dựng nhà lưu trú, công nhân và các công trình phục vụ nhu cầu nhà ở công nhân. Trên thực tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã hoàn thành đầu tư thí điểm dự án thiết chế công đoàn tại Khu công nghiệp Đồng Văn (Hà Nam) với 5 chung cư (gồm 244 căn hộ) và đã cho thuê đạt tỉ lệ 100%. Nguồn tài chính thu được từ việc cho thuê tiếp tục được tổng hợp để bố trí đầu tư tại các địa điểm khác. Tổng Liên đoàn đang phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố kêu gọi nhà đầu tư xây dựng nhà ở thuộc quy hoạch khu thiết chế công đoàn. Dự kiến giai đoạn 2023 - 2025, việc triển khai dự án được thực hiện tại 13 địa phương, tạo ra 11.554 căn hộ và đến năm 2030 tại các địa phương khác tạo lập được 13.455 căn hộ. Tổng Liên đoàn sẽ chủ động trong việc đầu tư và dự kiến đến năm 2030 sẽ xây dựng ít nhất tại 7 địa phương như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 03/4/2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà kí Quyết định số 338/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ NƠXH cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030". Phấn đấu đến năm 2030, tổng số căn hộ các địa phương hoàn thành khoảng 1.062.200 căn; trong đó, giai đoạn 2021 - 2025 hoàn thành khoảng 428.000 căn; giai đoạn 2025 - 2030 hoàn thành khoảng 634.200 căn.

Đề án đặt mục tiêu phát triển NƠXH, nhà ở công nhân có giá phù hợp với khả năng chi trả của hộ gia đình có thu nhập trung bình, thu nhập thấp khu vực đô thị và của công nhân, người lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nhà ở để tạo điều kiện cho mọi người có chỗ ở theo cơ chế thị trường, đáp ứng mọi nhu cầu của người dân, đồng thời có chính sách để hỗ trợ về nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội, người có thu nhập thấp và người nghèo gặp khó khăn về nhà ở nhằm góp phần ổn định chính trị, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển đô thị, nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại.

1https://www.agribank.com.vn/vn/ve-agribank/tin-tuc-su-kien/tin-ve-agribank/hoat-dong-agribank/agribank-danh-30-000-ty-dong-trien-khai-chuong-trinh-tin-dung-uu-dai-lai-suat-nha-o-xa-hoi

Tài liệu tham khảo:

1. Báo Phụ nữ Việt Nam, https://phunuvietnam.vn/thu-tuong-5-dinh-huong-lon-trong-phat-trien-nha-o-xa-hoi-nha-o-cho-cong-nhan-nguoi-thu-nhap-thap-20220801193801041.htm
2. Báo điện tử Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, https://plo.vn/nen-phat-trien-nha-tro-va-nha-o-xa-hoi-cho-thue-post738619.html
3. Báo Chính phủ, https://baochinhphu.vn
4. Báo Kinh tế & Đô thị, https://kinhtedothi.vn/bo-xay-dung-muc-tieu-xay-nha-o-cong-nhan-moi-dat-40.html
5. Tạp chí điện tử Người đưa tin, https://www.nguoiduatin.vn/tiep-tuc-nghien-cuu-bo-sung-chinh-sach-nha-o-cho-nguoi-thu-nhap-thap-a565695.html
6. Tạp chí Kinh tế Việt Nam, https://vneconomy.vn/chuong-trinh-phat-trien-nha-o-xa-hoi-tien-co-ma-kho-cho-vay.htm
7. Một số tài liệu khác.


TS. Nguyễn Thị Kim Nhã
TS. Nguyễn Minh Phong
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Trên cơ sở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có thể tác động đến triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng như mục tiêu hướng tới đảm bảo Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045, bài viết đã xây dựng kịch bản tăng trưởng căn cứ vào Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các định hướng, kế hoạch, chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030 nhằm hướng tới Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045.
Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Xuất hiện tại thị trường Mỹ vào những năm cuối thế kỷ 20, chứng khoán hóa tài sản trí tuệ sớm thu hút được nhiều sự quan tâm của truyền thông và giới nghiên cứu, hứa hẹn sẽ bùng nổ như một phương án huy động vốn thay thế tiềm năng, mở khóa tính thanh khoản cho một tài sản vô hình còn nhiều dư địa để phát triển.
Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế quản lý thị trường vàng trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm chưa thật sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, người dân vẫn duy trì xu hướng tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản thụ động, thay vì chuyển hóa thành nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, phát triển kinh tế, khiến một nguồn lực khổng lồ bị đóng băng trong xã hội, không được chuyển dịch vào đầu tư, sản xuất hay tiêu dùng. Điều này cho thấy cần có những điều chỉnh chính sách phù hợp hơn, nhằm thúc đẩy thị trường vàng phát triển theo hướng minh bạch, ổn định, qua đó góp phần khơi thông nguồn lực trong nền kinh tế.
Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Mô hình D-SMART là giải pháp toàn diện và phù hợp cho ngành logistics tại Việt Nam, tích hợp các bài học từ những quốc gia thành công. Mô hình không chỉ giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu quả vận hành mà còn đóng góp vào sự phát triển logistics bền vững và hiện đại hóa ngành logistics tại Việt Nam. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam có vai trò quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics, đặc biệt trong việc hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp. Một số giải pháp tài chính như khoản vay ưu đãi, tín dụng xanh và tài trợ dựa trên hiệu suất giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, giảm thiểu chi phí đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác công - tư và sự đổi mới trong dịch vụ tài chính, qua đó, tạo động lực mạnh mẽ cho ngành logistics Việt Nam hướng tới mục tiêu giảm chi phí logistics xuống còn 15 - 18% GDP vào năm 2030.
Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Bài viết này tập trung phân tích cách thức một số công ty logistics tiên phong trên thế giới triển khai ESG, đánh giá những tác động cụ thể đến thu hút đầu tư. Trên cơ sở bài học kinh nghiệm rút ra, bài viết đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách phù hợp với bối cảnh ngành logistics Việt Nam nhằm thúc đẩy áp dụng ESG hiệu quả, hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành logistics trong thời gian tới.
Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Trong hơn một thập kỷ qua, vàng đã trở lại mạnh mẽ như một tài sản dự trữ chiến lược toàn cầu. Trước năm 2010, các ngân hàng trung ương thường bán vàng để chuyển sang giữ USD hoặc EUR. Thế nhưng, xu hướng này đã hoàn toàn đảo ngược.
Ngân hàng trung ương và vàng: Phân tích và hàm ý

Ngân hàng trung ương và vàng: Phân tích và hàm ý

Vàng giữ vai trò rất quan trọng trong chiến lược tài chính của các ngân hàng trung ương toàn cầu. Những động thái gia tăng nắm giữ vàng không chỉ phản ánh sự thay đổi trong cách thức bảo vệ tài sản dự trữ mà còn cho thấy vai trò chiến lược của vàng trong việc đối phó với các biến động kinh tế - chính trị toàn cầu. Việc nắm giữ vàng có hàm ý lớn đối với các nhà đầu tư và nhà hoạch định chính sách, yêu cầu sự linh hoạt, thận trọng trong việc ra quyết định về tiền tệ cũng như quản lý tài sản dự trữ quốc gia.
Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thị trường vàng

Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thị trường vàng

Việt Nam có một truyền thống lâu đời trong tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản. Thói quen cất giữ vàng qua nhiều thế hệ đã hình thành tâm lý không muốn đưa vàng vào hệ thống tài chính chính thức. Đa phần người dân không có hóa đơn chứng minh nguồn gốc vàng, khiến họ ngần ngại khi tham gia vào các giao dịch có yếu tố kiểm soát. Lượng vàng lớn trong dân nếu không được huy động sẽ không thể phát huy được vai trò hỗ trợ ổn định tài chính tiền tệ quốc gia. Giải pháp quản lý thị trường vàng cần phải bắt đầu từ gỡ bỏ rào cản tâm lý, mở đường cho huy động lượng vàng vật chất đang nằm ngoài hệ thống.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng