Tác động của công nghệ thông tin và truyền thông đối với kinh tế tri thức tại Việt Nam

Công nghệ & ngân hàng số
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội. Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) và kinh tế số đánh dấu bước phát triển tất yếu đối với kinh tế tri thức.
aa

Tóm tắt: Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội. Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) và kinh tế số đánh dấu bước phát triển tất yếu đối với kinh tế tri thức. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm phân tích những ảnh hưởng mà ICT mang đến thông qua các dữ liệu về lưu lượng băng thông Internet, tình hình lao động nói chung và năng suất lao động xã hội tại Việt Nam nói riêng. Qua đánh giá, nghiên cứu cho thấy ICT đóng vai trò rất lớn đối với phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam. Những khía cạnh đại diện cho kinh tế tri thức như hạ tầng cơ sở thông tin, nhân lực công nghệ, hệ thống giáo dục và đào tạo đã có những thay đổi mạnh mẽ trong thời gian qua.

Từ khóa: ICT, kinh tế tri thức, Việt Nam.

THE IMPACT OF ICT ON THE KNOWLEDGE ECONOMY IN VIETNAM

Abstract: In the knowledge economy, knowledge plays a leading decisive role in socio-economic development. Information and Communications Technologies (ICT) and digital economy mark the inevitable development of the knowledge economy. The aim of the study is to analyze the effects that ICT brings through data on Internet bandwidth traffic, labor situation in general and social labor productivity in Vietnam in particular. Through assessment, the research shows that the impact of ICT plays an important role on the development of the knowledge economy in Vietnam. Aspects representing the knowledge economy such as information infrastructure, technological human resources and education and training systems have undergone strong changes in recent years.

Keywords: ICT, knowledge economy, Vietnam.

1. Đặt vấn đề


Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã thay đổi mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam, trong đó kinh tế tri thức gắn liền với sự biến động mà ICT mang lại. Dựa trên vai trò và tính chất, có bốn cách nhìn về ICT trong nền kinh tế, bao gồm: (1) ICT là một công nghệ; (2) ICT là một ngành công nghiệp; (3) ICT là một bộ phận cấu thành; và (4) ICT là đòn bẩy của nền kinh tế (Jayaprakash và Radhakrishna, 2022). Có thể nói rằng, công nghệ kĩ thuật số như máy tính và Internet được coi là những công cụ tiềm năng mạnh mẽ có khả năng tạo ra những thay đổi và cải cách cho giáo dục.

Trong nền kinh tế tri thức, thông tin luân chuyển ở cấp độ quốc tế thông qua thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư trực tiếp, cũng như các luồng công nghệ và sự di chuyển của con người. Chính vì vậy, nền kinh tế tiên tiến cần sự hỗ trợ nhanh chóng và thuận tiện hơn. Với đặc điểm như một trung gian kết nối, ICT đóng vai trò nhân tố chính thúc đẩy toàn cầu hóa và những thay đổi kinh tế liên quan, là trung tâm của những thay đổi kinh tế trong hơn một thập kỉ qua. Trong thực tiễn, ICT bao gồm một loạt các công nghệ sản phẩm và dịch vụ bao gồm phần cứng, phần mềm và dịch vụ máy tính. Bên cạnh đó, các ngành sản xuất ICT được phân loại thành các hoạt động sản xuất ICT và dịch vụ sản xuất ICT (Wangwe và Associates, 2007).

Nhiều nghiên cứu trước đây đã đánh giá về tác động của ICT đối với nền kinh tế qua các khía cạnh như tài chính, xuất nhập khẩu, lao động và an sinh xã hội. Theo Antonio và cộng sự (2020), tiến bộ trong việc triển khai và sử dụng ICT thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia nằm trong khuôn khổ các nền kinh tế phát triển. Hay theo Basri (2017), việc tổ chức học tập được xem là yếu tố trung tâm của quản lí tri thức và ICT đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu xem xét tác động của ICT đối với kinh tế tri thức. Nghiên cứu này sẽ phân tích những ảnh hưởng mà ICT mang đến thông qua các dữ liệu về lưu lượng băng thông Internet, tình hình lao động nói chung và năng suất lao động xã hội tại Việt Nam nói riêng. Hơn thế, nghiên cứu còn đánh giá dựa trên số liệu về hệ thống giáo dục và đào tạo qua các năm nhằm đưa ra những bằng chứng khoa học cụ thể.

2. Mối quan hệ giữa ICT, kinh tế tri thức và kinh tế số


Cách mạng về công nghệ thông tin là nguyên nhân quan trọng hình thành nền kinh tế thị trường. Việc ứng dụng công nghệ thông tin là yếu tố đưa những tri thức khoa học, kĩ thuật vào quá trình sản xuất (Bế Trung Anh, 2006). Xem xét về nguồn gốc lịch sử, khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỉ trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker. Nền kinh tế tri thức còn được gọi là nền kinh tế toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức. Theo Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh, kinh tế tri thức là nền kinh tế mà việc sản sinh ra và khai thác tri thức có vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải. Nền kinh tế tri thức gắn liền với sản xuất và dịch vụ, dựa trên nền tảng các hoạt động về kiến thức công nghệ thông tin, góp phần thúc đẩy tốc độ tiến bộ khoa học và công nghệ cũng như sự lỗi thời nhanh chóng của các biện pháp kĩ thuật truyền thống (Nga và cộng sự, 2024). Ngoài ra, ICT còn là động lực chính cho việc thuê ngoài và gia công (Niels and Charlotte, 2014). Điều này lí giải qua việc ICT có thể cho phép thay thế các nhà cung cấp bên ngoài ở mức chi phí thấp hơn so với nguồn cung cấp nội bộ.

ICT và kinh tế số đánh dấu bước phát triển tất yếu đối với kinh tế tri thức. Trong nghiên cứu hợp tác của Huawei với Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế của Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London về vai trò phát triển của ICT trong nền kinh tế, ảnh hưởng của ICT như “máy phát lan truyền tri thức”. Mặt khác, khoa học kinh tế là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học kinh tế. Dựa trên mối quan hệ giữa công nghệ và nền kinh tế tri thức, theo Hồ Tú Bảo (2009), có bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức, bao gồm: (1) Môi trường kinh tế và thể chế xã hội; (2) Giáo dục và đào tạo; (3) Hệ thống cách tân; và (4) Hạ tầng cơ sở thông tin. Còn theo PGS., TS. Vũ Văn Phúc (2020), ba yếu tố làm tiền đề để phát triển kinh tế tri thức, một là thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức, hai là hệ thống giáo dục và đào tạo có chất lượng và ba là hạ tầng cơ sở thông tin hiện đại.

Nhìn chung, kinh tế tri thức là nền kinh tế được phát triển chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực tri thức và ứng dụng công nghệ số tiên tiến vào thực tế. Ngày nay, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của kinh tế tri thức trong sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. So với kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp truyền thống, kinh tế tri thức được xem là giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất.

3. Đánh giá tác động của ICT đối với kinh tế tri thức tại Việt Nam


Tại Việt Nam, chỉ số mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (chỉ số ICT) được tính dựa trên số liệu trung bình của ba chỉ số, bao gồm: Chỉ số hạ tầng kĩ thuật, chỉ số hạ tầng nhân lực và chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin. (Hình 1)

Hình 1: Sự thay đổi của chỉ số ICT của Việt Nam

giai đoạn 2006 - 2023


Đơn vị tính: %

Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông


- Chỉ số hạ tầng kĩ thuật: Tính dựa trên tỉ lệ hộ gia đình có kết nối Internet băng rộng (%).

- Chỉ số hạ tầng nhân lực: Tính dựa trên tỉ lệ cán bộ, công chức, viên chức biết sử dụng máy tính trong công việc/tỉ lệ trường cao đẳng, đại học có chuyên ngành Công nghệ thông tin - Truyền thông (%).

- Chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin: Tính dựa trên tỉ lệ cán bộ, công chức sử dụng thư điện tử trong công việc (%).

Tính đến cuối năm 2023, chỉ số ICT đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ. So với cùng kì năm 2006, tốc độ tăng trưởng của chỉ số ICT đạt 95,16%, tăng từ 37,9 lên đến 73,9. Cụ thể, theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2023, phương hướng nhiệm vụ năm 2024 của Bộ Thông tin và Truyền thông, doanh thu lĩnh vực công nghiệp ICT năm 2023 đạt 3.397.492 tỉ đồng, tăng 1,4% so với năm 2022; số doanh nghiệp công nghệ số đăng kí hoạt động và tổng số lao động trong ngành công nghệ thông tin cũng tăng lần lượt từ 46.000 doanh nghiệp và 1,4 triệu lao động vào năm 2022 lên mức 47.000 doanh nghiệp và 1,45 triệu lao động trong năm 2023. Tuy nhiên, sự phát triển ICT giữa các ngành còn thiếu đồng đều. Tài chính là một trong những ngành có tốc độ tiếp cận ICT cao nhất tại Việt Nam. Sự phát triển với quy mô ngày càng sâu rộng, cùng mức độ phức tạp của ICT vào các hoạt động nghiệp vụ tài chính đòi hỏi phải có được công cụ khoa học. Nếu không thể vượt ra khỏi nhóm đi sau, đi cuối hoặc không tìm được cách để làm những việc khác ngoài gia công và chế biến thì kinh tế tri thức khó cải thiện và tăng trưởng.

Tác động của ICT đối với kinh tế tri thức tại Việt Nam có thể đánh giá trên ba khía cạnh, đó là hạ tầng cơ sở thông tin, nhân lực công nghệ, hệ thống giáo dục và đào tạo:

Thứ nhất, tính liên kết giữa các thủ tục ICT và chiến lược tổ chức thường không bền vững vì bối cảnh chiến lược liên tục thay đổi và do đó, cần có danh mục công nghệ thông tin để tự cấu hình với sự thay đổi này. Theo Tổng cục Thống kê, số thuê bao Internet băng rộng cố định giai đoạn 2006 - 2023 có sự gia tăng ổn định qua từng năm, tính đến cuối năm 2023, số lượng thuê bao Internet băng rộng cố định vào khoảng 22.140 nghìn thuê bao (tương ứng với tỉ lệ 22,26 thuê bao/100 dân), tăng 8% so với cùng kì năm 2022 và tăng gần 43 lần so với năm 2006. (Hình 2)

Hình 2: Số thuê bao Internet băng rộng cố định (ADSL)

giai đoạn 2006 - 2023


Đơn vị tính: Nghìn thuê bao

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Dựa theo đó, việc đảm bảo tính tương thích của ICT với các hệ thống và thủ tục của tổ chức là vô cùng cần thiết, để cả hai có một môi trường hoạt động chung. Sự lan tỏa nhanh chóng của ICT đã tạo ra những thay đổi quan trọng về cách thức và địa điểm sản xuất hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, ICT cũng góp phần đổi mới các phương tiện mà hàng hóa, dịch vụ được đưa ra thị trường và phân phối cho người tiêu dùng thông qua việc kết nối Internet.

Thứ hai, sự phát triển của nền kinh tế tri thức đang làm thay đổi nhu cầu của thị trường lao động về năng lực và kĩ năng. Nếu năm 2009, tỉ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo của ngành thông tin và truyền thông, giáo dục và đào tạo chỉ đạt 61,8% và 78% thì đến năm 2023, con số này đã tăng trưởng, lần lượt đạt 88,32% và 92,49%. (Hình 3)

Hình 3: Tỉ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc

đã qua đào tạo giai đoạn 2009 - 2023


Đơn vị tính: %

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Tiềm năng của ICT đã thúc đẩy giới kinh doanh thay thế, sửa đổi vốn và lao động thông thường. Trên khía cạnh đầu tư, ICT là một lĩnh vực năng động với tính thay đổi không ngừng về giá của các thiết bị, công cụ điện tử.

Khả năng cạnh tranh kinh tế phụ thuộc vào năng suất và trong nền kinh tế tri thức, các lĩnh vực ICT quyết định mức năng suất. Phần lớn các nghiên cứu kinh tế vĩ mô về nền kinh tế tri thức đã tập trung vào mối liên hệ giữa công nghệ và năng suất lao động, được định nghĩa là lượng đầu ra cho một đơn vị lao động đầu vào. Chính vì vậy, năng suất lao động xã hội được xem là chỉ số đại diện tốt của kinh tế tri thức trong việc đo lường. (Hình 4)

Hình 4: Năng suất lao động xã hội giai đoạn 2006 - 2023


Đơn vị tính: Triệu đồng/người

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Giáo dục và Đào tạo


Năm 2023, năng suất lao động của người Việt Nam đạt 188,7 triệu đồng, tăng 4,8% so với cùng kì năm trước với GDP/người ước đạt hơn 101,9 triệu đồng/người/năm. Đồng thời, tỉ lệ tham gia lực lượng lao động ghi nhận trong năm 2023 là 68,9%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với năm 2022.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê đến năm 2023, hai ngành thông tin và truyền thông, giáo dục và đào tạo đã có bước tiến triển khá rõ rệt khi năng suất lao động xã hội tăng từ mức 66 và 21,4 trong đầu năm 2006 lên đến 1.141,96 và 196,64 vào cuối năm 2023.

Thứ ba, con người có nhận thức, ý thức và tích lũy kiến thức để trở thành con người có tri thức. Kinh tế tri thức dựa trên nền tảng giáo dục và đào tạo. Xét về tổng thể cơ sở giáo dục sau phổ thông, tại Việt Nam phân ra hai hệ thống là trường công lập và trường ngoài công lập.

Nếu trước đây, số trường giáo dục đại học và cao đẳng hệ công lập chiếm tỉ lệ vượt trội so với số lượng trường hệ ngoài công lập, thì từ năm 2015, với chính sách tư nhân hóa giáo dục, sự chênh lệch về tỉ lệ đã giảm đi đáng kể (Hình 5). Điều này đi theo xu hướng của các nước trên thế giới như Mỹ, Anh, Singapore... với con đường phát triển giáo dục đại học và cao đẳng. Ngày nay, chỉ một số ít quốc gia như Bhutan, Cuba, Triều Tiên là hoàn toàn không có giáo dục tư.

Hình 5: Số trường giáo dục đại học và cao đẳng hệ công lập

và ngoài công lập giai đoạn 2006 - 2023


Đơn vị tính: Trường

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Giáo dục và Đào tạo


Ngoài ra, với nhu cầu lao động là nhân sự chất lượng cao, dữ liệu năm 2023 cho thấy có khoảng 2.624.370 sinh viên đang theo học tại các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng, trong đó số lượng sinh viên tốt nghiệp khoảng 250.759 sinh viên. Đây là nguồn nhân lực dồi dào cho nền kinh tế của một quốc gia đang trên đà phát triển như Việt Nam, hướng đến mục tiêu bền vững kinh tế - xã hội.

4. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế tri thức


Một là, phát triển hạ tầng cơ sở thông tin tạo nền tảng vững chắc cho áp dụng công nghệ thông tin trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tri thức. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng cao do toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ sở lí luận vững chắc cho các chính sách chủ động của chính phủ, đặc biệt là đổi mới công nghệ và thúc đẩy các hoạt động kinh tế dựa trên tri thức. Tiêu biểu nhất là Thành phố Hồ Chí Minh. Là một trong những thành phố có sự phát triển ICT và kinh tế tri thức vào tốp đầu cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh đã từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Để hoàn thiện hơn nữa hạ tầng cơ sở thông tin tại Việt Nam, cần có sự đồng bộ giữa các địa phương, cụ thể là dữ liệu hành chính, thông tin doanh nghiệp nên được quản lí trên nền tảng số hóa. Điều này vừa giúp giảm thiểu thủ tục hành chính hiện tại, vừa nâng cao hiệu quả kiểm soát và tính minh bạch, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Hai là, nhân lực công nghệ xác định tính hữu hiệu của kinh tế tri thức. Tầm quan trọng của mạng lưới tri thức và sự hợp tác trong việc thúc đẩy đổi mới có thể dẫn đến sự đánh giá mới về các chiến lược quản lí nguồn nhân lực hiệu quả trong một số lĩnh vực chính, hỗ trợ về sự sáng tạo, tận dụng kiến thức hiện có và tiếp thu kiến thức mới. Đội ngũ nhân sự chất lượng cao là nhiệm vụ gắn liền với phát triển kinh tế, năng suất lao động xã hội được cải thiện. Việt Nam cần có nhiều hơn những chính sách trong việc đào tạo nhân lực công nghệ. Sự phát triển của ICT là yếu tố kết nối nguồn nhân lực giữa các quốc gia.

Ba là, nâng cao hơn nữa hệ thống giáo dục và đào tạo tại Việt Nam. Thách thức đối với cộng đồng giáo dục nói chung là thiết kế một mô hình giáo dục, thay đổi phương pháp dạy và học truyền thống, phù hợp với kinh tế tri thức. Trên cơ sở đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm và kĩ năng trong công tác giáo dục và đào tạo, cần áp dụng công nghệ trong chương trình giảng dạy để người học tiếp cận với công nghệ thông tin, ứng dụng vào thực tiễn.

Bốn là, xây dựng và hoàn thiện chương trình mục tiêu phát triển công nghiệp công nghệ thông tin tại địa phương đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, phát triển kinh tế tri thức dựa trên ICT là một giải pháp mang tính chiến lược nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số, chính quyền số và xã hội số. Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2024 của Bộ Thông tin và Truyền thông, nhiều lãnh đạo cơ quan, ban, ngành và các chuyên gia đã có những nhận định về ICT, trong đó ICT với vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là lĩnh vực đầu tàu cho sự phát triển của cả nước nhưng những năm gần đây tăng trưởng còn chậm, chưa đi đầu về công nghệ trong CMCN 4.0. Để tiếp tục phấn đấu hơn nữa, cần nhìn nhận rằng con số doanh nghiệp công nghệ số của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với các quốc gia khác trong khu vực và thế giới.

5. Kết luận

ICT đóng vai trò rất lớn đối với phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam. Những khía cạnh đại diện cho kinh tế tri thức như hạ tầng cơ sở thông tin, nhân lực công nghệ, hệ thống giáo dục và đào tạo đã có những thay đổi mạnh mẽ trong thời gian qua. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội. Theo kế hoạch hoàn thiện cơ sở hạ tầng quốc gia và phát triển đô thị, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 829/QĐ-BTTTT ngày 31/5/2019 về khung tham chiếu ICT phát triển đô thị thông minh, ICT được xem là yếu tố quyết định thành công của Việt Nam trong xây dựng đô thị thông minh bền vững. Chính vì vậy, thời gian tới, các cơ quan, ban, ngành và doanh nghiệp tại Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc triển khai và áp dụng ICT trong quản lí và phát triển nền kinh tế nói chung và kinh tế tri thức nói riêng.

Tài liệu tham khảo:


1. Bế Trung Anh (2006). “Công nghệ thông tin thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”. https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?dDocName=CNTHWEBAP01162529461

2. Antonio, F. P., Manuel, A. G. and Ricardo, H. M. (2020). “Impact of ICT development on economic growth: A study of OECD European union countries”. Technology in Society, 63. https://doi.org/10.1016/j.techsoc.2020.101420

3. Hồ Tú Bảo (2009). “Kinh tế tri thức ở Việt Nam”. Tạp chí Tia Sáng, 23, trang 12-18.

4. Basri, W. S. (2017). “ICT, Knowledge Economy and Learning Organization: A case study of three organizations”. Science International (Lahore), 29(1), pages 297-302.

5. Nguyễn Thị Ngọc Hương (2013). “Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 8(3), trang 97-109.

6. Hodrab, R., Maitah, M. and Lubos, S. (2016). “The Effect of Information and Communication Technology on Economic Growth: Arab World Case”. International Journal of Economics and Financial Issues (IJEFI), 6(2), pages 765-775.

7. Jayaprakash, P. and Radhakrishna, P. R (2022). “The Role of ICT for Sustainable Development: A Cross-Country Analysis”. The European Journal of Development Research, 34, pages 225-247.

8. Vũ Văn Phúc (2020). “Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và nền kinh tế tri thức”. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/820152/cach-mang-khoa-hoc---cong-nghe-hien-dai-va-nen-kinh-te-tri-thuc.aspx

9. Đặng Thị Việt Đức và Nguyễn Thanh Tuyên (2011). “Vai trò của Công nghệ thông tin và Truyền thông trong nền kinh tế tri thức và trường hợp của Việt Nam”. https://ictpress.vn/Tri-thuc-chuyen-nganh/Kinh-te-chuyen-nganh/Vai-tro-cua-CNTTTT-trong-nen-kinh-te-tri-thuc-va-truong-hop-cua-Vietnam


Nguyễn Hoàng Nam

Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng