Quy định về đăng kí đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo dự thảo luật đất đai sửa đổi và một số góp ý hoàn thiện

Thị trường tài chính
Vấn đề đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là một trong những nội dung quan trọng trong quản lí nhà nước về đất đai, nó không những liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước mà còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
aa

Vấn đề đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là một trong những nội dung quan trọng trong quản lí nhà nước về đất đai, nó không những liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước mà còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Thời gian qua, Luật Đất đai năm 2013 đã bộc lộ nhiều hạn chế về đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, từ đó, đã gây ra nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Vì thế, cần phải quan tâm nhiều hơn về việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này, từ đó giải quyết được các khó khăn tồn đọng của cơ quan nhà nước, giảm thiểu tình trạng tranh chấp, khiếu kiện người sử dụng đất.




Đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là một vấn đề quan trọng trong việc quản lí đất đai


1. Thực trạng về đăng kí đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

Đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là nội dung quan trọng của quản lí nhà nước về đất đai. Mặc dù pháp luật đã có nhiều thay đổi qua các thời kì ban hành, song, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì thực tế áp dụng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập. Dựa theo kết quả đăng kí, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất chia theo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2020 thì trên cả nước đã có 23.555.605 ha đất được đăng kí tương ứng với 43.792.540 số giấy chứng nhận1. Đối với công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đến năm 2022 trên địa bàn cả nước đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận lần đầu cho hầu hết các đối tượng đang sử dụng đất, theo đó đã hoàn thành trên 77% diện tích tự nhiên; hoàn thành trên 97,6% diện tích được cấp giấy chứng nhận lần đầu, trong đó đất sản xuất nông nghiệp đạt trên 93%, đất lâm nghiệp đạt trên 98%, đất nuôi trồng thủy sản đạt trên 87%, đất ở nông thôn đạt trên 96%, đất ở đô thị đạt trên 98%, đất chuyên dùng đạt trên 87%, cơ sở tôn giáo đạt trên 83%2. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hiện nay vẫn còn tồn tại những vấn đề hạn chế, bất cập và tồn đọng nhất định tại một số địa phương. Theo đánh giá chung hiện nay, số lượng hồ sơ cần cấp giấy chứng nhận vẫn còn tồn đọng nhiều nhưng chưa được giải quyết; nhiều giấy chứng nhận ghi sai hoặc thiếu thông tin về người sử dụng đất, số thửa, số bản đồ; sơ đồ thửa không thể hiện chỉ giới quy hoạch; thông tin về thửa đất trên giấy chứng nhận đã cấp không phù hợp với hiện trạng thửa đất do quá trình biến động thửa đất không được cập nhật, chỉnh lí biến động gây khó khăn trong quá trình thẩm định, xử lí hồ sơ khi người sử dụng đất thực hiện đăng kí biến động đất đa3... Đơn cử như tại thành phố Huế, theo báo cáo cuối năm 2022, số hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất còn tồn đọng hơn 130 hồ sơ, trong đó số lượng hồ sơ cấp giấy chứng nhận ở các phường, xã sáp nhập còn thấp, thời gian giải quyết hồ sơ kéo dài, gây bức xúc cho người dân4. Hay tại tỉnh Thanh Hóa, tính đến thời điểm cuối năm 2022, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cấp giấy chứng nhận còn những tồn tại, hạn chế như: Số lượng hồ sơ cần cấp giấy chứng nhận lần đầu còn tồn đọng nhiều nhưng chưa được giải quyết, trong đó còn 7.969/22.143 trường hợp có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai (711 hồ sơ đã đề nghị nhưng chưa cấp giấy chứng nhận); 19.239/28.637 trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai (1.345 hồ sơ đã đề nghị nhưng chưa cấp giấy chứng nhận); 3.189/4.163 trường hợp sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01/7/2014; 10.656/12.830 trường hợp giao đất không đúng thẩm quyền5. Việc kiểm soát thủ tục hành chính, kiểm tra, giám sát trong thực hiện thủ tục hành chính về đăng kí, cấp giấy chứng nhận còn để người dân phản ánh, kiến nghị, tạo dư luận không tốt; có 6.473/269.035 hồ sơ đã giải quyết nhưng chậm so với quy định6.

Có thể thấy rằng, mặc dù Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định các trường hợp đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận, các trường hợp không phải thực hiện thủ tục này. Tuy nhiên, thực tế, người sử dụng đất chưa ý thức được tầm quan trọng của thủ tục này trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đến khi xảy ra tranh chấp thì người dân lại lúng túng, gặp khó khăn trong giải quyết quyền lợi cho chính mình. Do đó, Dự thảo Luật Đất đai là một hướng giải quyết để thay thế và sửa đổi lại những bất cập trước đó.

2. Một số bất cập trong quy định pháp luật liên quan về đăng kí đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản với đất

Liên quan đến vấn đề đăng kí đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản với đất còn tồn tại một số vấn đề bất cập cần phải xem xét điều chỉnh như sau:

Thứ nhất, quy định về nghĩa vụ đăng kí tại khoản 1 Điều 95 Luật Đất đai năm 2013: “Đăng kí đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người được giao đất để quản lí; đăng kí quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu.” Nghĩa là, Luật không bắt buộc phải đăng kí quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà chỉ quy định đăng kí dựa theo ý chí của chủ sở hữu. Điều này dẫn đến tình trạng là các vấn đề tranh chấp rất dễ phát sinh như: Mua bán đất nhưng không bán nhà ở và tài sản trên đất; trên đất đã có nhà không thể di dời mà thực hiện chuyển nhượng làm cho người mua đất không thể sử dụng được đất. Mặc dù Điều 408 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 20157 đưa ra các quy định hợp đồng vô hiệu để kiểm soát tình trạng này, song trên thực tế, quy định này vẫn chưa thể giải quyết được triệt để vấn đề trên mà còn tạo điều kiện cho các tranh chấp phức tạp phát sinh.


Quy định nêu trên cũng khiến cho việc xác định tài sản giữa cha, mẹ và con cái, giữa vợ và chồng trong trường hợp giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế, chia tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất khi vợ chồng li hôn khi mà tài sản trong các mối quan hệ đó mới chỉ xác lập quyền sử dụng hợp pháp đối với đất, song quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng lại chưa thực hiện việc đăng kí do pháp luật không quy định là yêu cầu bắt buộc8.

Trong Dự thảo9, việc đăng kí đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vẫn quy định như luật hiện hành là chỉ bắt buộc đăng kí đất đai, còn đăng kí quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thì được thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu. Điều này mang lại bất cập tương tự như Điều 95 của Luật Đất đai hiện hành là gây phức tạp trong việc phân định và giải quyết các tranh chấp liên quan về đất và tài sản gắn liền với đất.

Thứ hai, quy định về khái niệm “hộ gia đình sử dụng đất” tại khoản 29 Điều 310 thì để được xem là thành viên “hộ gia đình” sử dụng đất phải đáp ứng các dấu hiệu sau: Một là, những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Hai là, những chủ thể trên phải đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Trong Dự thảo, khái niệm này cũng được nêu tương tự tại khoản 2 Điều 5, mặc dù có sự thay đổi về quy định những người trong hộ gia đình sử dụng đất không cần phải sống chung với nhau nữa mà chỉ cần đáp ứng điều kiện: Có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, huyết thống; có quyền sử dụng đất trước ngày luật có hiệu lực. Tuy nhiên, điều này cũng làm phát sinh nhiều vấn đề như: Việc xác định như thế nào là cùng huyết thống còn khó khăn; việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình dựa trên quan hệ nuôi dưỡng cũng còn nhiều phức tạp, vướng mắc khi có sự biến động về diện tích và có sự sai khác về số lượng thành viên trong hộ gia đình đó.

Thứ ba, việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng ghi nhận có thể đứng tên một người trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận11, việc cả luật hiện hành và dự thảo luật giữ nguyên quy định này có thể làm mất đi ý nghĩa “bắt buộc” ghi cả họ tên vợ và họ tên chồng vào giấy chứng nhận. Điều này rất bất tiện trong trường hợp xảy ra tranh chấp về tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng, gây khó khăn cho quá trình phân định tài sản và hoạt động xét xử của Tòa án trong việc đảm bảo quyền lợi của hai bên.

Thứ tư, tại khoản 1 Điều 13712 của Dự thảo quy định về việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định chỉ cần đáp ứng hai điều kiện: Có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp tại vùng có điều kiện khó khăn, đặc biệt khó khăn thì được công nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Quy định này dễ dẫn đến tình trạng người sử dụng đất lợi dụng để tránh né nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất, gây khó khăn cho công tác quản lí Nhà nước về đất đai tại địa phương.

Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 13713 quy định thửa đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất chỉ được công nhận khi đáp ứng đủ hai điều kiện: Không lấn, chiếm và phù hợp với quy hoạch. Nhưng theo Luật Đất đai 2013, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trường hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng được Chính phủ cho phép đối với một số trường hợp14. Như vậy, Dự thảo Luật và hướng dẫn thi hành của Chính phủ hiện đang mâu thuẫn với nhau làm ảnh hưởng đến đối tượng thuộc trường hợp sử dụng đất lấn, chiếm, tự ý chuyển mục sử dụng đất trước ngày 01/7/2014.

Thứ năm, thực tiễn không gian ngầm và khoảng không đang dần được khai thác, sử dụng một cách phổ biến nhưng cả luật hiện hành và dự thảo luật đều thiếu sót khi không làm rõ nội hàm“không gian ngầm và khoảng không” là gì mà chỉ đưa ra khái niệm “đất để xây dựng công trình ngầm”15 và các thuật ngữ “không gian xây dựng ngầm đô thị” và “công trình ngầm đô thị” tại Nghị định số 39/2010/NĐ-CP ngày 07/4/2010 của Chính phủ về quản lí không gian xây dựng ngầm đô thị. Nội hàm của các thuật ngữ được xây dựng không đồng nhất với nhau dẫn đến hiểu sai về ý nghĩa.

Thứ sáu, một số vấn đề vướng mắc về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Một là, cấp giấy lần đầu cho hộ gia đình, cá nhân thì thẩm quyền thuộc về ủy ban nhân dân cấp huyện nhưng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp biến động thì thẩm quyền lại thuộc về Sở Tài nguyên và Môi trường, quy định này gây nên sự cồng kềnh cho hệ thống quản lí, thiếu tính thống nhất, không thể đảm bảo kiểm tra và giám sát về việc sử dụng đất của chủ thể. Hai là, Luật đã trao quá nhiều quyền cho ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện quản lí đất đai ở địa phương như: Quản lí hồ sơ địa chính về đất đai; thực hiện việc xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, thời điểm sử dụng đất, hiện trạng sử dụng đất và tình trạng pháp lí cũng như tình trạng thực tế của đất; xác nhận về điều kiện thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất ở nông thôn; thừa kế quyền sử dụng đất; tình trạng đất tranh chấp, tham gia hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai…, đặc biệt là trong lĩnh vực xác nhận nguồn gốc đất để công nhận quyền sử dụng đất, thực tế dẫn đến tình trạng lạm quyền, tùy tiện và phát sinh sai phạm.

Tại Dự thảo Luật Đất đai thì thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất thuộc về ủy ban nhân dân cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện16 mà hai cơ quan này cũng chính là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó còn có thêm quy định thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ quan đăng kí đất đa17. Đây là điểm chưa thống nhất, đồng bộ liên quan đến hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

3. Một số góp ý hoàn thiện

Nhận thấy những quy định trên khi áp dụng vào thực tế vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả, cần có những bổ sung, thay đổi sao cho phù hợp với thực tiễn và thể hiện được sự tiến bộ trong quá trình lập pháp, một số góp ý cụ thể được đưa ra như sau:

- Nên bổ sung quy định bắt buộc chủ sở hữu phải thực hiện việc đăng kí khi có tài sản gắn liền với đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thay đổi này có thể giúp tránh khỏi tình trạng “bán nhà nhưng không bán đất” phổ biến trong tranh chấp hiện nay nhằm bảo vệ quyền lợi cho người nhận chuyển nhượng.

- Về thuật ngữ “hộ gia đình sử dụng đất” hiện nay còn gây nhiều tranh cãi và vướng mắc khi công nhận. Cần bỏ đi quy định về “hộ gia đình” khi sử dụng đất, thay vào đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần thay đổi ghi nhận theo kiểu liệt kê những cá nhân có quyền sử dụng đất chung theo tinh thần tại khoản 5 Điều 143 Dự thảo Luật. Nhưng không nên đưa thêm quy định ghi tên đại diện hộ gia đình trên giấy chứng nhận và trao cho người đại diện hộ gia đình để tránh sau này phát sinh tranh chấp và khó khăn trong thủ tục hành chính khi có yêu cầu cấp lại, cấp thêm cho hộ gia đình.

- Hoàn thiện về công nhận quyền đối với hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về quyền sử dụng đất18, cụ thể là về vấn đề điều kiện công nhận quyền sử dụng đất, đặc biệt chú ý đến các đối tượng sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 để tránh ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của họ, cần xem xét các vấn đề bất cập nêu trên để đảm bảo thống nhất trong quy định mới và văn bản hướng dẫn thi hành, hạn chế tình trạng chồng lấn pháp luật.

- Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) bổ sung quy định đăng kí đất đai khi có sự thay đổi quyền sử dụng không gian ngầm, khoảng không19, cụ thể, Điều 133 và Điều 134 Dự thảo có quy định về trách nhiệm đăng kí đối với quyền sử dụng không gian ngầm và khoảng không của các chủ thể. Nhưng cần phải có thuật ngữ quy định thế nào là không gian ngầm và khoảng không để tạo điều kiện thuận lợi trong việc quy hoạch, xây dựng.

- Cần tách thẩm quyền của hai hoạt động công nhận quyền sử dụng đất và hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giao cho hai cơ quan khác nhau để thể hiện sự trình tự. Ý kiến này một phần giúp thủ tục đăng kí và cấp giấy trở nên đỡ phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi thực hiện nghĩa vụ đăng kí.

Kết luận

Đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là một vấn đề quan trọng trong việc quản lí đất đai. Do đó, cần phải quan tâm nhiều hơn về việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này, từ đó giải quyết được các khó khăn tồn đọng của cơ quan nhà nước, giảm thiểu tình trạng tranh chấp, khiếu kiện của người sử dụng đất.

1 Trang dữ liệu Thống kê ngành Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) http://thongke.monre.gov.vn/, truy cập ngày 24/02/2023.

2 Minh Hùng, “Cần làm rõ những tồn tại hạn chế trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=63338, truy cập ngày 21/3/2023.

3 Cổng thông tin điện tử Tỉnh ủy Thanh Hóa, “Khắc phục những tồn tại, hạn chế, đưa công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đi vào nền nếp”, https://thanhhoa.dcs.vn/tinhuy/pages/2022-5-30/Khac-phuc-nhung-ton-tai-han-che-dua-cong-tac-cap-gzevoubfrvtli.aspx, truy cập ngày 21/3/2023.

4 Thái Hùng, “Hạn chế tỷ lệ hồ sơ tồn đọng”, https://huecity.gov.vn/Tin-tong-hop/tid/Han-che-ty-le-ho-so-ton-dong/pid/0ADFDD8F-D7EA-4813-A8FF-AF9D00B79066/cid/00408EF6-CE7A-432D-B951-56BAFA1FA41E, truy cập ngày 21/3/2023.
5 Tuyết Trang, “Phiên giải trình về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”, https://baotainguyenmoitruong.vn/thanh-hoa-phien-giai-trinh-ve-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-quyen-so-huu-nha-o-va-tai-san-gan-lien-voi-dat-340400.html, truy cập ngày 21/3/2023.
6 Tuyết Trang, “Phiên giải trình về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”, https://baotainguyenmoitruong.vn/thanh-hoa-phien-giai-trinh-ve-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-quyen-so-huu-nha-o-va-tai-san-gan-lien-voi-dat-340400.html, truy cập ngày 21/3/2023.
7 Điều 408. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.

“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực”.

8 Chế Thị Bích Thủy, Một số bất cập về đăng kí đất đai và kiến nghị hoàn thiện, tạp chí Tòa án nhân dân, https://www.tapchitoaan.vn/mot-so-bat-cap-ve-dang-ky-dat-dai-va-kien-nghi-hoan-thien6992.html, truy cập ngày 24/02/2023.
9 Khoản 1 Điều 132 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
10 “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
11 Khoản 4 Điều 98 Luật Đất đai 2013 và khoản 4 Điều 143 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
12 “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 135 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được y ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được công nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
13 “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 135 của Luật này mà không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì được công nhận quyền sử dụng đất nếu có các điều kiện như sau:

a) Thửa đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp không thuộc trường hợp lấn, chiếm, tranh chấp đất đai;
b) Thửa đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp không thuộc trường hợp lấn, chiếm, tranh chấp đất đai, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định.”

14 Điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014.
15 Khoản 14 Điều 3 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): “Đất để xây dựng công trình ngầm là phần đất để xây dựng công trình trong lòng đất mà công trình này không phải là phần ngầm của công trình xây dựng trên mặt đất.

16 Điều 140 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) về Thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất:

“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, tổ chức tôn giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.”

17 Khoản 7 Điều 143 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
18 Tuệ Văn, “Hoàn thiện quy định về công nhận quyền đối với hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, https://baochinhphu.vn/hoan-thien-quy-dinh-ve-cong-nhan-quyen-doi-voi-ho-gia-dinh-ca-nhan-khong-co-giay-to-ve-quyen-su-dung-dat-102230206164450446.htm, truy cập ngày 28/02/2023.

19 Cổng thông tin điện tử Chính phủ, “Bổ sung quy định đăng ký đất đai khi có sự thay đổi quyền sử dụng không gian ngầm, khoảng không, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/bo-sung-quy-dinh-dang-ky-dat-dai-khi-co-su-thay-doi-quyen-su-dung-khong-gian-ngam-khoang-khong-119230202170738841.htm, truy cập ngày 27/02/2023.


Tài liệu tham khảo:


1. Luật Đất đai năm 2013.
2. Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi.
3. Cổng thông tin điện tử Chính phủ, “Bổ sung quy định đăng kí đất đai khi có sự thay đổi quyền sử dụng không gian ngầm, khoảng không, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/bo-sung-quy-dinh-dang-ky-dat-dai-khi-co-su-thay-doi-quyen-su-dung-khong-gian-ngam-khoang-khong-119230202170738841.htm, truy cập ngày 27/02/2023.
4. Cổng Thông tin điện tử Tỉnh ủy Thanh Hóa, “Khắc phục những tồn tại, hạn chế, đưa công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đi vào nền nếp”, https://thanhhoa.dcs.vn/tinhuy/pages/2022-5-30/Khac-phuc-nhung-ton-tai-han-che-dua-cong-tac-cap-gzevoubfrvtli.aspx, truy cập ngày 21/3/2023.
5. Minh Hùng, “Cần làm rõ những tồn tại hạn chế trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=63338, truy cập ngày 21/3/2023.
6. Thái Hùng, “Hạn chế tỷ lệ hồ sơ tồn đọng”, https://huecity.gov.vn/Tin-tong-hop/tid/Han-che-ty-le-ho-so-ton-dong/pid/0ADFDD8F-D7EA-4813-A8FF-AF9D00B79066/cid/00408EF6-CE7A-432D-B951-56BAFA1FA41E, truy cập ngày 21/3/2023.
7. Tuyết Trang, Phiên giải trình về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, https://baotainguyenmoitruong.vn/thanh-hoa-phien-giai-trinh-ve-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-quyen-so-huu-nha-o-va-tai-san-gan-lien-voi-dat-340400.html, truy cập ngày 21/3/2023.
8. Chế Thị Bích Thủy, Một số bất cập về đăng ký đất đai và kiến nghị hoàn thiện, tạp chí Tòa án nhân dân, truy cập từ https://www.tapchitoaan.vn/mot-so-bat-cap-ve-dang-ky-dat-dai-va-kien-nghi-hoan-thien6992.html, truy cập ngày 24/02/2023.
9. Tuệ Văn, “Hoàn thiện quy định về công nhận quyền đối với hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, https://baochinhphu.vn/hoan-thien-quy-dinh-ve-cong-nhan-quyen-doi-voi-ho-gia-dinh-ca-nhan-khong-co-giay-to-ve-quyen-su-dung-dat-102230206164450446.htm, truy cập ngày 28/02/2023.


Ths. Phạm Thị Hải Vân
Trường Đại học Phan Thiết
Trương Lê Hà Anh, Nguyễn Phạm Thanh Hoa, ThS. Trần Linh Huân
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thị trường vàng

Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thị trường vàng

Việt Nam có một truyền thống lâu đời trong tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản. Thói quen cất giữ vàng qua nhiều thế hệ đã hình thành tâm lý không muốn đưa vàng vào hệ thống tài chính chính thức. Đa phần người dân không có hóa đơn chứng minh nguồn gốc vàng, khiến họ ngần ngại khi tham gia vào các giao dịch có yếu tố kiểm soát. Lượng vàng lớn trong dân nếu không được huy động sẽ không thể phát huy được vai trò hỗ trợ ổn định tài chính tiền tệ quốc gia. Giải pháp quản lý thị trường vàng cần phải bắt đầu từ gỡ bỏ rào cản tâm lý, mở đường cho huy động lượng vàng vật chất đang nằm ngoài hệ thống.
Phân tích bản đồ tri thức trong nghiên cứu về tăng trưởng của doanh nghiệp nhỏ và vừa - Một số gợi ý cho Việt Nam

Phân tích bản đồ tri thức trong nghiên cứu về tăng trưởng của doanh nghiệp nhỏ và vừa - Một số gợi ý cho Việt Nam

Bài viết sử dụng phần mềm CiteSpace, dựa trên phương pháp phân tích bản đồ tri thức (Mapping knowledge domain Analysis), tiến hành phân tích định lượng bằng biểu đồ trực quan và diễn giải định tính của một số lượng lớn tài liệu nghiên cứu, tài liệu có độ trích dẫn, tương tác cao liên quan đến chủ đề tăng trưởng của DNNVV trên kho dữ liệu Web of Science.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Quản lý tài chính cá nhân: Vai trò của lập ngân sách và tiết kiệm tài chính

Quản lý tài chính cá nhân: Vai trò của lập ngân sách và tiết kiệm tài chính

Lập ngân sách và tiết kiệm đóng vai trò quan trọng trong quản lý tài chính cá nhân. Chúng không chỉ giúp kiểm soát chi tiêu, tạo điều kiện để đạt được các mục tiêu tài chính dài hạn mà còn giảm bớt căng thẳng tài chính và chuẩn bị cho các tình huống khẩn cấp. Việc kết hợp giữa lập ngân sách và tiết kiệm giúp tăng cường kỷ luật tài chính, tạo điều kiện để cá nhân có thể đạt được sự ổn định và thịnh vượng trong cuộc sống.
Những thách thức về biến đổi khí hậu và hàm ý chính sách đối với nợ công

Những thách thức về biến đổi khí hậu và hàm ý chính sách đối với nợ công

Biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu, đòi hỏi đầu tư tài chính lớn, đặc biệt từ ngân sách nhà nước và sự hỗ trợ của các nước phát triển. Việc cân bằng giữa mục tiêu khí hậu và tính bền vững nợ công là vấn đề phức tạp. Bài viết phân tích những hạn chế tài chính mà các nhà hoạch định chính sách gặp phải và đề xuất một số hàm ý chính sách.
Tận dụng cơ hội từ thuế tối thiểu toàn cầu: Góc nhìn từ thực thi chính sách pháp luật

Tận dụng cơ hội từ thuế tối thiểu toàn cầu: Góc nhìn từ thực thi chính sách pháp luật

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của các tập đoàn đa quốc gia, việc thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu đã trở thành một xu hướng tất yếu nhằm ngăn chặn tình trạng trốn thuế và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đối với Việt Nam, chính sách thuế tối thiểu toàn cầu không chỉ mang lại cơ hội mà còn đặt ra những thách thức đáng kể. Để tối ưu hóa những cơ hội và vượt qua những thách thức này, Việt Nam cần triển khai hiệu quả các biện pháp pháp lý và chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế và đầu tư vào một hệ thống quản lý thuế hiện đại.
Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược

Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược

Các ngân hàng tại Trung tâm tài chính quốc tế sẽ phải tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế với những yêu cầu về tính linh hoạt và khả năng đáp ứng cao, đặc biệt là trong môi trường tài chính toàn cầu hóa như hiện nay.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng