Quy định về đăng kí đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo dự thảo luật đất đai sửa đổi và một số góp ý hoàn thiện

Thị trường tài chính
Vấn đề đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là một trong những nội dung quan trọng trong quản lí nhà nước về đất đai, nó không những liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước mà còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
aa

Vấn đề đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là một trong những nội dung quan trọng trong quản lí nhà nước về đất đai, nó không những liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước mà còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Thời gian qua, Luật Đất đai năm 2013 đã bộc lộ nhiều hạn chế về đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, từ đó, đã gây ra nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Vì thế, cần phải quan tâm nhiều hơn về việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này, từ đó giải quyết được các khó khăn tồn đọng của cơ quan nhà nước, giảm thiểu tình trạng tranh chấp, khiếu kiện người sử dụng đất.




Đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là một vấn đề quan trọng trong việc quản lí đất đai


1. Thực trạng về đăng kí đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

Đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là nội dung quan trọng của quản lí nhà nước về đất đai. Mặc dù pháp luật đã có nhiều thay đổi qua các thời kì ban hành, song, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì thực tế áp dụng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập. Dựa theo kết quả đăng kí, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất chia theo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2020 thì trên cả nước đã có 23.555.605 ha đất được đăng kí tương ứng với 43.792.540 số giấy chứng nhận1. Đối với công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đến năm 2022 trên địa bàn cả nước đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận lần đầu cho hầu hết các đối tượng đang sử dụng đất, theo đó đã hoàn thành trên 77% diện tích tự nhiên; hoàn thành trên 97,6% diện tích được cấp giấy chứng nhận lần đầu, trong đó đất sản xuất nông nghiệp đạt trên 93%, đất lâm nghiệp đạt trên 98%, đất nuôi trồng thủy sản đạt trên 87%, đất ở nông thôn đạt trên 96%, đất ở đô thị đạt trên 98%, đất chuyên dùng đạt trên 87%, cơ sở tôn giáo đạt trên 83%2. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hiện nay vẫn còn tồn tại những vấn đề hạn chế, bất cập và tồn đọng nhất định tại một số địa phương. Theo đánh giá chung hiện nay, số lượng hồ sơ cần cấp giấy chứng nhận vẫn còn tồn đọng nhiều nhưng chưa được giải quyết; nhiều giấy chứng nhận ghi sai hoặc thiếu thông tin về người sử dụng đất, số thửa, số bản đồ; sơ đồ thửa không thể hiện chỉ giới quy hoạch; thông tin về thửa đất trên giấy chứng nhận đã cấp không phù hợp với hiện trạng thửa đất do quá trình biến động thửa đất không được cập nhật, chỉnh lí biến động gây khó khăn trong quá trình thẩm định, xử lí hồ sơ khi người sử dụng đất thực hiện đăng kí biến động đất đa3... Đơn cử như tại thành phố Huế, theo báo cáo cuối năm 2022, số hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất còn tồn đọng hơn 130 hồ sơ, trong đó số lượng hồ sơ cấp giấy chứng nhận ở các phường, xã sáp nhập còn thấp, thời gian giải quyết hồ sơ kéo dài, gây bức xúc cho người dân4. Hay tại tỉnh Thanh Hóa, tính đến thời điểm cuối năm 2022, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cấp giấy chứng nhận còn những tồn tại, hạn chế như: Số lượng hồ sơ cần cấp giấy chứng nhận lần đầu còn tồn đọng nhiều nhưng chưa được giải quyết, trong đó còn 7.969/22.143 trường hợp có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai (711 hồ sơ đã đề nghị nhưng chưa cấp giấy chứng nhận); 19.239/28.637 trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai (1.345 hồ sơ đã đề nghị nhưng chưa cấp giấy chứng nhận); 3.189/4.163 trường hợp sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01/7/2014; 10.656/12.830 trường hợp giao đất không đúng thẩm quyền5. Việc kiểm soát thủ tục hành chính, kiểm tra, giám sát trong thực hiện thủ tục hành chính về đăng kí, cấp giấy chứng nhận còn để người dân phản ánh, kiến nghị, tạo dư luận không tốt; có 6.473/269.035 hồ sơ đã giải quyết nhưng chậm so với quy định6.

Có thể thấy rằng, mặc dù Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định các trường hợp đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận, các trường hợp không phải thực hiện thủ tục này. Tuy nhiên, thực tế, người sử dụng đất chưa ý thức được tầm quan trọng của thủ tục này trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đến khi xảy ra tranh chấp thì người dân lại lúng túng, gặp khó khăn trong giải quyết quyền lợi cho chính mình. Do đó, Dự thảo Luật Đất đai là một hướng giải quyết để thay thế và sửa đổi lại những bất cập trước đó.

2. Một số bất cập trong quy định pháp luật liên quan về đăng kí đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản với đất

Liên quan đến vấn đề đăng kí đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản với đất còn tồn tại một số vấn đề bất cập cần phải xem xét điều chỉnh như sau:

Thứ nhất, quy định về nghĩa vụ đăng kí tại khoản 1 Điều 95 Luật Đất đai năm 2013: “Đăng kí đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người được giao đất để quản lí; đăng kí quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu.” Nghĩa là, Luật không bắt buộc phải đăng kí quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà chỉ quy định đăng kí dựa theo ý chí của chủ sở hữu. Điều này dẫn đến tình trạng là các vấn đề tranh chấp rất dễ phát sinh như: Mua bán đất nhưng không bán nhà ở và tài sản trên đất; trên đất đã có nhà không thể di dời mà thực hiện chuyển nhượng làm cho người mua đất không thể sử dụng được đất. Mặc dù Điều 408 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 20157 đưa ra các quy định hợp đồng vô hiệu để kiểm soát tình trạng này, song trên thực tế, quy định này vẫn chưa thể giải quyết được triệt để vấn đề trên mà còn tạo điều kiện cho các tranh chấp phức tạp phát sinh.


Quy định nêu trên cũng khiến cho việc xác định tài sản giữa cha, mẹ và con cái, giữa vợ và chồng trong trường hợp giải quyết tranh chấp về chia di sản thừa kế, chia tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất khi vợ chồng li hôn khi mà tài sản trong các mối quan hệ đó mới chỉ xác lập quyền sử dụng hợp pháp đối với đất, song quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng lại chưa thực hiện việc đăng kí do pháp luật không quy định là yêu cầu bắt buộc8.

Trong Dự thảo9, việc đăng kí đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vẫn quy định như luật hiện hành là chỉ bắt buộc đăng kí đất đai, còn đăng kí quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thì được thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu. Điều này mang lại bất cập tương tự như Điều 95 của Luật Đất đai hiện hành là gây phức tạp trong việc phân định và giải quyết các tranh chấp liên quan về đất và tài sản gắn liền với đất.

Thứ hai, quy định về khái niệm “hộ gia đình sử dụng đất” tại khoản 29 Điều 310 thì để được xem là thành viên “hộ gia đình” sử dụng đất phải đáp ứng các dấu hiệu sau: Một là, những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Hai là, những chủ thể trên phải đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Trong Dự thảo, khái niệm này cũng được nêu tương tự tại khoản 2 Điều 5, mặc dù có sự thay đổi về quy định những người trong hộ gia đình sử dụng đất không cần phải sống chung với nhau nữa mà chỉ cần đáp ứng điều kiện: Có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, huyết thống; có quyền sử dụng đất trước ngày luật có hiệu lực. Tuy nhiên, điều này cũng làm phát sinh nhiều vấn đề như: Việc xác định như thế nào là cùng huyết thống còn khó khăn; việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình dựa trên quan hệ nuôi dưỡng cũng còn nhiều phức tạp, vướng mắc khi có sự biến động về diện tích và có sự sai khác về số lượng thành viên trong hộ gia đình đó.

Thứ ba, việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng ghi nhận có thể đứng tên một người trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận11, việc cả luật hiện hành và dự thảo luật giữ nguyên quy định này có thể làm mất đi ý nghĩa “bắt buộc” ghi cả họ tên vợ và họ tên chồng vào giấy chứng nhận. Điều này rất bất tiện trong trường hợp xảy ra tranh chấp về tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng, gây khó khăn cho quá trình phân định tài sản và hoạt động xét xử của Tòa án trong việc đảm bảo quyền lợi của hai bên.

Thứ tư, tại khoản 1 Điều 13712 của Dự thảo quy định về việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định chỉ cần đáp ứng hai điều kiện: Có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp tại vùng có điều kiện khó khăn, đặc biệt khó khăn thì được công nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Quy định này dễ dẫn đến tình trạng người sử dụng đất lợi dụng để tránh né nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất, gây khó khăn cho công tác quản lí Nhà nước về đất đai tại địa phương.

Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 13713 quy định thửa đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất chỉ được công nhận khi đáp ứng đủ hai điều kiện: Không lấn, chiếm và phù hợp với quy hoạch. Nhưng theo Luật Đất đai 2013, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trường hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng được Chính phủ cho phép đối với một số trường hợp14. Như vậy, Dự thảo Luật và hướng dẫn thi hành của Chính phủ hiện đang mâu thuẫn với nhau làm ảnh hưởng đến đối tượng thuộc trường hợp sử dụng đất lấn, chiếm, tự ý chuyển mục sử dụng đất trước ngày 01/7/2014.

Thứ năm, thực tiễn không gian ngầm và khoảng không đang dần được khai thác, sử dụng một cách phổ biến nhưng cả luật hiện hành và dự thảo luật đều thiếu sót khi không làm rõ nội hàm“không gian ngầm và khoảng không” là gì mà chỉ đưa ra khái niệm “đất để xây dựng công trình ngầm”15 và các thuật ngữ “không gian xây dựng ngầm đô thị” và “công trình ngầm đô thị” tại Nghị định số 39/2010/NĐ-CP ngày 07/4/2010 của Chính phủ về quản lí không gian xây dựng ngầm đô thị. Nội hàm của các thuật ngữ được xây dựng không đồng nhất với nhau dẫn đến hiểu sai về ý nghĩa.

Thứ sáu, một số vấn đề vướng mắc về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Một là, cấp giấy lần đầu cho hộ gia đình, cá nhân thì thẩm quyền thuộc về ủy ban nhân dân cấp huyện nhưng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp biến động thì thẩm quyền lại thuộc về Sở Tài nguyên và Môi trường, quy định này gây nên sự cồng kềnh cho hệ thống quản lí, thiếu tính thống nhất, không thể đảm bảo kiểm tra và giám sát về việc sử dụng đất của chủ thể. Hai là, Luật đã trao quá nhiều quyền cho ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện quản lí đất đai ở địa phương như: Quản lí hồ sơ địa chính về đất đai; thực hiện việc xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, thời điểm sử dụng đất, hiện trạng sử dụng đất và tình trạng pháp lí cũng như tình trạng thực tế của đất; xác nhận về điều kiện thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất ở nông thôn; thừa kế quyền sử dụng đất; tình trạng đất tranh chấp, tham gia hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai…, đặc biệt là trong lĩnh vực xác nhận nguồn gốc đất để công nhận quyền sử dụng đất, thực tế dẫn đến tình trạng lạm quyền, tùy tiện và phát sinh sai phạm.

Tại Dự thảo Luật Đất đai thì thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất thuộc về ủy ban nhân dân cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện16 mà hai cơ quan này cũng chính là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó còn có thêm quy định thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ quan đăng kí đất đa17. Đây là điểm chưa thống nhất, đồng bộ liên quan đến hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

3. Một số góp ý hoàn thiện

Nhận thấy những quy định trên khi áp dụng vào thực tế vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả, cần có những bổ sung, thay đổi sao cho phù hợp với thực tiễn và thể hiện được sự tiến bộ trong quá trình lập pháp, một số góp ý cụ thể được đưa ra như sau:

- Nên bổ sung quy định bắt buộc chủ sở hữu phải thực hiện việc đăng kí khi có tài sản gắn liền với đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thay đổi này có thể giúp tránh khỏi tình trạng “bán nhà nhưng không bán đất” phổ biến trong tranh chấp hiện nay nhằm bảo vệ quyền lợi cho người nhận chuyển nhượng.

- Về thuật ngữ “hộ gia đình sử dụng đất” hiện nay còn gây nhiều tranh cãi và vướng mắc khi công nhận. Cần bỏ đi quy định về “hộ gia đình” khi sử dụng đất, thay vào đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần thay đổi ghi nhận theo kiểu liệt kê những cá nhân có quyền sử dụng đất chung theo tinh thần tại khoản 5 Điều 143 Dự thảo Luật. Nhưng không nên đưa thêm quy định ghi tên đại diện hộ gia đình trên giấy chứng nhận và trao cho người đại diện hộ gia đình để tránh sau này phát sinh tranh chấp và khó khăn trong thủ tục hành chính khi có yêu cầu cấp lại, cấp thêm cho hộ gia đình.

- Hoàn thiện về công nhận quyền đối với hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về quyền sử dụng đất18, cụ thể là về vấn đề điều kiện công nhận quyền sử dụng đất, đặc biệt chú ý đến các đối tượng sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 để tránh ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của họ, cần xem xét các vấn đề bất cập nêu trên để đảm bảo thống nhất trong quy định mới và văn bản hướng dẫn thi hành, hạn chế tình trạng chồng lấn pháp luật.

- Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) bổ sung quy định đăng kí đất đai khi có sự thay đổi quyền sử dụng không gian ngầm, khoảng không19, cụ thể, Điều 133 và Điều 134 Dự thảo có quy định về trách nhiệm đăng kí đối với quyền sử dụng không gian ngầm và khoảng không của các chủ thể. Nhưng cần phải có thuật ngữ quy định thế nào là không gian ngầm và khoảng không để tạo điều kiện thuận lợi trong việc quy hoạch, xây dựng.

- Cần tách thẩm quyền của hai hoạt động công nhận quyền sử dụng đất và hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giao cho hai cơ quan khác nhau để thể hiện sự trình tự. Ý kiến này một phần giúp thủ tục đăng kí và cấp giấy trở nên đỡ phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi thực hiện nghĩa vụ đăng kí.

Kết luận

Đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là một vấn đề quan trọng trong việc quản lí đất đai. Do đó, cần phải quan tâm nhiều hơn về việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này, từ đó giải quyết được các khó khăn tồn đọng của cơ quan nhà nước, giảm thiểu tình trạng tranh chấp, khiếu kiện của người sử dụng đất.

1 Trang dữ liệu Thống kê ngành Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) http://thongke.monre.gov.vn/, truy cập ngày 24/02/2023.

2 Minh Hùng, “Cần làm rõ những tồn tại hạn chế trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=63338, truy cập ngày 21/3/2023.

3 Cổng thông tin điện tử Tỉnh ủy Thanh Hóa, “Khắc phục những tồn tại, hạn chế, đưa công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đi vào nền nếp”, https://thanhhoa.dcs.vn/tinhuy/pages/2022-5-30/Khac-phuc-nhung-ton-tai-han-che-dua-cong-tac-cap-gzevoubfrvtli.aspx, truy cập ngày 21/3/2023.

4 Thái Hùng, “Hạn chế tỷ lệ hồ sơ tồn đọng”, https://huecity.gov.vn/Tin-tong-hop/tid/Han-che-ty-le-ho-so-ton-dong/pid/0ADFDD8F-D7EA-4813-A8FF-AF9D00B79066/cid/00408EF6-CE7A-432D-B951-56BAFA1FA41E, truy cập ngày 21/3/2023.
5 Tuyết Trang, “Phiên giải trình về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”, https://baotainguyenmoitruong.vn/thanh-hoa-phien-giai-trinh-ve-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-quyen-so-huu-nha-o-va-tai-san-gan-lien-voi-dat-340400.html, truy cập ngày 21/3/2023.
6 Tuyết Trang, “Phiên giải trình về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”, https://baotainguyenmoitruong.vn/thanh-hoa-phien-giai-trinh-ve-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-quyen-so-huu-nha-o-va-tai-san-gan-lien-voi-dat-340400.html, truy cập ngày 21/3/2023.
7 Điều 408. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.

“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực”.

8 Chế Thị Bích Thủy, Một số bất cập về đăng kí đất đai và kiến nghị hoàn thiện, tạp chí Tòa án nhân dân, https://www.tapchitoaan.vn/mot-so-bat-cap-ve-dang-ky-dat-dai-va-kien-nghi-hoan-thien6992.html, truy cập ngày 24/02/2023.
9 Khoản 1 Điều 132 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
10 “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
11 Khoản 4 Điều 98 Luật Đất đai 2013 và khoản 4 Điều 143 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
12 “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 135 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được y ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được công nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
13 “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 135 của Luật này mà không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì được công nhận quyền sử dụng đất nếu có các điều kiện như sau:

a) Thửa đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp không thuộc trường hợp lấn, chiếm, tranh chấp đất đai;
b) Thửa đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp không thuộc trường hợp lấn, chiếm, tranh chấp đất đai, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định.”

14 Điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014.
15 Khoản 14 Điều 3 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): “Đất để xây dựng công trình ngầm là phần đất để xây dựng công trình trong lòng đất mà công trình này không phải là phần ngầm của công trình xây dựng trên mặt đất.

16 Điều 140 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) về Thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất:

“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, tổ chức tôn giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.”

17 Khoản 7 Điều 143 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
18 Tuệ Văn, “Hoàn thiện quy định về công nhận quyền đối với hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, https://baochinhphu.vn/hoan-thien-quy-dinh-ve-cong-nhan-quyen-doi-voi-ho-gia-dinh-ca-nhan-khong-co-giay-to-ve-quyen-su-dung-dat-102230206164450446.htm, truy cập ngày 28/02/2023.

19 Cổng thông tin điện tử Chính phủ, “Bổ sung quy định đăng ký đất đai khi có sự thay đổi quyền sử dụng không gian ngầm, khoảng không, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/bo-sung-quy-dinh-dang-ky-dat-dai-khi-co-su-thay-doi-quyen-su-dung-khong-gian-ngam-khoang-khong-119230202170738841.htm, truy cập ngày 27/02/2023.


Tài liệu tham khảo:


1. Luật Đất đai năm 2013.
2. Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi.
3. Cổng thông tin điện tử Chính phủ, “Bổ sung quy định đăng kí đất đai khi có sự thay đổi quyền sử dụng không gian ngầm, khoảng không, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/bo-sung-quy-dinh-dang-ky-dat-dai-khi-co-su-thay-doi-quyen-su-dung-khong-gian-ngam-khoang-khong-119230202170738841.htm, truy cập ngày 27/02/2023.
4. Cổng Thông tin điện tử Tỉnh ủy Thanh Hóa, “Khắc phục những tồn tại, hạn chế, đưa công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đi vào nền nếp”, https://thanhhoa.dcs.vn/tinhuy/pages/2022-5-30/Khac-phuc-nhung-ton-tai-han-che-dua-cong-tac-cap-gzevoubfrvtli.aspx, truy cập ngày 21/3/2023.
5. Minh Hùng, “Cần làm rõ những tồn tại hạn chế trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=63338, truy cập ngày 21/3/2023.
6. Thái Hùng, “Hạn chế tỷ lệ hồ sơ tồn đọng”, https://huecity.gov.vn/Tin-tong-hop/tid/Han-che-ty-le-ho-so-ton-dong/pid/0ADFDD8F-D7EA-4813-A8FF-AF9D00B79066/cid/00408EF6-CE7A-432D-B951-56BAFA1FA41E, truy cập ngày 21/3/2023.
7. Tuyết Trang, Phiên giải trình về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, https://baotainguyenmoitruong.vn/thanh-hoa-phien-giai-trinh-ve-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-quyen-so-huu-nha-o-va-tai-san-gan-lien-voi-dat-340400.html, truy cập ngày 21/3/2023.
8. Chế Thị Bích Thủy, Một số bất cập về đăng ký đất đai và kiến nghị hoàn thiện, tạp chí Tòa án nhân dân, truy cập từ https://www.tapchitoaan.vn/mot-so-bat-cap-ve-dang-ky-dat-dai-va-kien-nghi-hoan-thien6992.html, truy cập ngày 24/02/2023.
9. Tuệ Văn, “Hoàn thiện quy định về công nhận quyền đối với hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, https://baochinhphu.vn/hoan-thien-quy-dinh-ve-cong-nhan-quyen-doi-voi-ho-gia-dinh-ca-nhan-khong-co-giay-to-ve-quyen-su-dung-dat-102230206164450446.htm, truy cập ngày 28/02/2023.


Ths. Phạm Thị Hải Vân
Trường Đại học Phan Thiết
Trương Lê Hà Anh, Nguyễn Phạm Thanh Hoa, ThS. Trần Linh Huân
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Trên cơ sở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có thể tác động đến triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng như mục tiêu hướng tới đảm bảo Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045, bài viết đã xây dựng kịch bản tăng trưởng căn cứ vào Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các định hướng, kế hoạch, chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030 nhằm hướng tới Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045.
Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Xuất hiện tại thị trường Mỹ vào những năm cuối thế kỷ 20, chứng khoán hóa tài sản trí tuệ sớm thu hút được nhiều sự quan tâm của truyền thông và giới nghiên cứu, hứa hẹn sẽ bùng nổ như một phương án huy động vốn thay thế tiềm năng, mở khóa tính thanh khoản cho một tài sản vô hình còn nhiều dư địa để phát triển.
Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế quản lý thị trường vàng trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm chưa thật sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, người dân vẫn duy trì xu hướng tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản thụ động, thay vì chuyển hóa thành nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, phát triển kinh tế, khiến một nguồn lực khổng lồ bị đóng băng trong xã hội, không được chuyển dịch vào đầu tư, sản xuất hay tiêu dùng. Điều này cho thấy cần có những điều chỉnh chính sách phù hợp hơn, nhằm thúc đẩy thị trường vàng phát triển theo hướng minh bạch, ổn định, qua đó góp phần khơi thông nguồn lực trong nền kinh tế.
Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Mô hình D-SMART là giải pháp toàn diện và phù hợp cho ngành logistics tại Việt Nam, tích hợp các bài học từ những quốc gia thành công. Mô hình không chỉ giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu quả vận hành mà còn đóng góp vào sự phát triển logistics bền vững và hiện đại hóa ngành logistics tại Việt Nam. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam có vai trò quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics, đặc biệt trong việc hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp. Một số giải pháp tài chính như khoản vay ưu đãi, tín dụng xanh và tài trợ dựa trên hiệu suất giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, giảm thiểu chi phí đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác công - tư và sự đổi mới trong dịch vụ tài chính, qua đó, tạo động lực mạnh mẽ cho ngành logistics Việt Nam hướng tới mục tiêu giảm chi phí logistics xuống còn 15 - 18% GDP vào năm 2030.
Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Bài viết này tập trung phân tích cách thức một số công ty logistics tiên phong trên thế giới triển khai ESG, đánh giá những tác động cụ thể đến thu hút đầu tư. Trên cơ sở bài học kinh nghiệm rút ra, bài viết đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách phù hợp với bối cảnh ngành logistics Việt Nam nhằm thúc đẩy áp dụng ESG hiệu quả, hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành logistics trong thời gian tới.
Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Trong hơn một thập kỷ qua, vàng đã trở lại mạnh mẽ như một tài sản dự trữ chiến lược toàn cầu. Trước năm 2010, các ngân hàng trung ương thường bán vàng để chuyển sang giữ USD hoặc EUR. Thế nhưng, xu hướng này đã hoàn toàn đảo ngược.
Ngân hàng trung ương và vàng: Phân tích và hàm ý

Ngân hàng trung ương và vàng: Phân tích và hàm ý

Vàng giữ vai trò rất quan trọng trong chiến lược tài chính của các ngân hàng trung ương toàn cầu. Những động thái gia tăng nắm giữ vàng không chỉ phản ánh sự thay đổi trong cách thức bảo vệ tài sản dự trữ mà còn cho thấy vai trò chiến lược của vàng trong việc đối phó với các biến động kinh tế - chính trị toàn cầu. Việc nắm giữ vàng có hàm ý lớn đối với các nhà đầu tư và nhà hoạch định chính sách, yêu cầu sự linh hoạt, thận trọng trong việc ra quyết định về tiền tệ cũng như quản lý tài sản dự trữ quốc gia.
Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thị trường vàng

Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thị trường vàng

Việt Nam có một truyền thống lâu đời trong tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản. Thói quen cất giữ vàng qua nhiều thế hệ đã hình thành tâm lý không muốn đưa vàng vào hệ thống tài chính chính thức. Đa phần người dân không có hóa đơn chứng minh nguồn gốc vàng, khiến họ ngần ngại khi tham gia vào các giao dịch có yếu tố kiểm soát. Lượng vàng lớn trong dân nếu không được huy động sẽ không thể phát huy được vai trò hỗ trợ ổn định tài chính tiền tệ quốc gia. Giải pháp quản lý thị trường vàng cần phải bắt đầu từ gỡ bỏ rào cản tâm lý, mở đường cho huy động lượng vàng vật chất đang nằm ngoài hệ thống.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng