Phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị

Nghiên cứu - Trao đổi
Với sự phát triển về tiềm lực và vị thế quốc tế của Việt Nam, đất nước ta đang trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư trong khu vực và quốc tế.
aa

Tóm tắt: Với sự phát triển về tiềm lực và vị thế quốc tế của Việt Nam, đất nước ta đang trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư trong khu vực và quốc tế. Điều này khuyến khích luân chuyển nguồn vốn tăng nhanh để đáp ứng sự phát triển kinh tế. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là thị trường đầu tiên phân bổ nguồn vốn cho nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối dòng tiền, đảm bảo duy trì giá trị đồng tiền và phòng, chống rửa tiền. Thời gian qua, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới để phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã hoàn thiện xây dựng 4 hệ thống thanh toán quốc gia, đồng thời đa dạng về loại hình giao dịch, giá trị giao dịch và loại đồng tiền. Tuy nhiên, đứng trước sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ và yêu cầu kết nối toàn cầu giữa các hệ thống thanh toán quốc gia, cần có những phân tích cụ thể hơn để đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng tại Việt Nam. Bài viết này phân tích thực trạng liên quan đến thị trường tiền tệ liên ngân hàng thời kỳ từ 2018 - 2023, qua đó đưa ra một số khuyến nghị đối với sự phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng, lãi suất liên ngân hàng, thanh toán liên ngân hàng.


DEVELOPING THE INTERBANK CURRENCY MARKET IN VIETNAM:
CURRENT SITUATION AND RECOMMENDATIONS


Abstract: Vietnam has become an attractive destination for regional and global investors, leading to a rapid increase in capital circulation to meet the need for economic development. The interbank currency market plays a crucial role in allocating capital resources, coordinating cash flow, maintaining currency value, and preventing money laundering. Despite building four national payment systems with perse transaction types, values, and currencies, the State Bank of Vietnam faces challenges due to rapid technological changes. This article analyzes current situation in the interbank currency market from 2018 to 2023, thereby, providing some recommendations for its development in coming time in Vietnam.

Keywords: Interbank currency market, interbank interest rates, interbank payments.

1. Đặt vấn đề

Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là một cấu phần quan trọng của thị trường tiền tệ nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Dù thành viên thị trường này chủ yếu là các ngân hàng nhưng chính tại thị trường lại quyết định hướng chảy của dòng vốn và phân bổ nguồn vốn với hiệu quả kinh tế cao nhất. Do đó, đối với ngân hàng trung ương - đơn vị quản lý trực tiếp các tổ chức tín dụng (TCTD), thị trường tiền tệ liên ngân hàng dần trở thành khu vực mang tính chiến lược quan trọng nhất do thị trường là nơi truyền dẫn chính sách tiền tệ trực tiếp đến các TCTD, sau đó tác động nhanh chóng đến các thành phần còn lại của nền kinh tế ở mọi lĩnh vực.

Tại Việt Nam, hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng thời gian qua đã ghi nhận sự phát triển nhanh chóng cả về chất và lượng. NHNN đã xây dựng thành công 4 hệ thống thanh toán quốc gia đa dạng về loại hình giao dịch, giá trị giao dịch và loại đồng tiền. Tính đến nay, NHNN đã thực hiện tương đối tốt vai trò của mình trên thị trường: Đảm bảo an toàn thị trường và phục vụ nhu cầu hợp pháp của người dùng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, thị trường tiền tệ liên ngân hàng đang bộc lộ một số hạn chế như: Rủi ro thanh khoản mang tính hệ thống có khả năng xảy ra khi có thông tin bất lợi trên thị trường; các hệ thống thanh toán chưa có tính liên kết với nhau khiến cho NHNN khó thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát của mình, đặc biệt trong bối cảnh tội phạm công nghệ cao ngày càng gia tăng; các TCTD tham gia thị trường còn ở thế bị động, chưa thực sự linh hoạt tìm kiếm cơ hội đầu tư.

2. Thực trạng thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2018 - 2023

Về doanh số giao dịch

Trong giai đoạn 2018 - 2023, thị trường tiền tệ liên ngân hàng tại Việt Nam đã ghi nhận sự phát triển nhanh chóng về khối lượng giao dịch qua các năm.

Hình 1: Doanh số giao dịch giai đoạn 2018 - 2023
trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng


Đơn vị: Nghìn tỉ đồng

Nguồn: NHNN


Hình 1 cho thấy, tổng doanh số giao dịch liên ngân hàng tăng liên tục qua các năm trong giai đoạn 2018 - 2023 do việc cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế thường tăng khoảng 14%/năm. Đặc biệt, năm 2021 và năm 2022 có mức tăng mạnh nhất trong cả giai đoạn, nguyên nhân xuất phát từ hiệu lực của Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 và sự hiện đại hóa của hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Những động lực này đã tạo điều kiện cần và đủ cho sự bùng nổ doanh số qua các năm.

Mặc dù vậy, khi phân tích số liệu doanh số liên ngân hàng theo định kỳ hằng năm, có thể thấy sự nhạy cảm của thị trường này trước biến động của kinh tế bao gồm các biến động có chu kỳ như các dịp lễ, Tết dương lịch, Tết âm lịch hay các biến động bất thường như thay đổi về lãi suất, sự xuất hiện của đại dịch Covid-19…


Hình 2: Doanh số giao dịch liên ngân hàng giai đoạn 2018 - 2023 theo tháng


Đơn vị: Triệu đồng

Nguồn: NHNN


Nhìn chung, giai đoạn 2018 - 2023, dù doanh số giao dịch hằng tháng tăng theo từng năm nhưng về cơ bản, quy luật giao dịch (phản ánh tại mô hình đường giao dịch theo các tháng) giữa các năm là giống nhau. Thị trường giao dịch sôi động hơn vào các tháng 1, 2, 3 và tháng 12 do đây là các tháng đầu và cuối năm, trong khi đó, các tháng còn lại duy trì khá ổn định, không có biến động nhiều. Riêng năm 2022 xuất hiện sự khác biệt tại doanh số giao dịch so với cùng kỳ các năm trước. Nguyên nhân xuất phát từ sự xuất hiện của nhiều thông tin không tích cực đối với một ngân hàng thương mại (NHTM) trong hệ thống. Tại thời điểm đó, NHNN đã nhanh chóng giải quyết các vấn đề về thanh khoản trên thị trường và công bố các thông tin chính xác nhằm trấn an thị trường. Do đặc điểm là thị trường nhạy cảm, dù thanh khoản thị trường được hỗ trợ kịp thời nhưng gây ảnh hưởng lớn đến lãi suất chung của nền kinh tế và lãi suất liên ngân hàng nói riêng. Năm 2023 vẫn duy trì quy luật doanh số giao dịch như năm 2022, nguyên nhân có thể do các hình thức hỗ trợ thị trường vào năm 2022 là ngắn hạn (thường từ 1 tháng đến 1 năm).

Mặt khác, về tỉ lệ giao dịch theo loại hình hàng hóa, thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam vẫn có sự ưu ái với các giao dịch như cho vay và gửi tiền hơn.

Bảng 1: Tỉ lệ các giao dịch trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
giai đoạn 2018 - 2023

Đơn vị: %

Nguồn: NHNN


Bảng 1 cho thấy, các giao dịch mua kỳ hạn và mua hẳn giấy tờ có giá chiếm tỉ lệ rất nhỏ trên tổng khối lượng các giao dịch trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Hai nguyên nhân chính khiến cho loại hình giao dịch này không hấp dẫn đối với nhà đầu tư chính là trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa có Hợp đồng mua lại (Repo) chuẩn áp dụng thống nhất cho giao dịch mua lại giấy tờ có giá đối với tất cả thành viên thị trường tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và chi phí vận hành của Repo đã tăng cao hơn nhiều trong môi trường lãi suất thấp. Giao dịch Repo phải được xử lý thông qua Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) với mức phí lớn ở kỳ hạn mà các ngân hàng hoạt động sôi động nhất (từ 1 ngày đến 1 tháng).

Về lãi suất trên thị trường

Do thị trường tiền tệ liên ngân là thị trường nguồn vốn ngắn hạn nên nghiên cứu sẽ tập trung phân tích các kỳ hạn sau: Qua đêm, 1 tuần, 2 tuần và 1 tháng từ năm 2018 đến năm 2023.

Hình 3: Lãi suất thị trường liên ngân hàng theo ngày các kỳ hạn
giai đoạn 2018 - 2023

Đơn vị: %/năm

Nguồn: NHNN


Hình 3 cho thấy, lãi suất các kỳ hạn nói chung đều chạm ngưỡng thấp nhất (xấp xỉ 0%/năm) cả giai đoạn vào thời điểm bùng nổ dịch Covid-19 từ đầu năm 2020 đến giữa năm 2022 do các nền kinh tế chủ yếu đóng cửa để đảm bảo công tác phòng, chống dịch dẫn đến nguồn vốn rẻ và dư thừa.

Ngay sau đó, khi dịch bệnh được kiểm soát, kinh tế dần mở cửa để phục hồi, nguồn vốn được khơi thông, lãi suất đã dần tăng và ổn định trở lại (dao động dưới 4%/năm đối với các kỳ hạn). Đến giữa năm 2022, do xảy ra một sự cố bất ngờ khiến thị trường tiền tệ liên ngân hàng bị ngưng trệ; các TCTD thiếu tín nhiệm lẫn nhau, chỉ tin tưởng giao dịch với các ngân hàng quốc doanh và NHNN. Điều này đã đẩy lãi suất cao nhất cả giai đoạn (cao nhất khoảng 10%/năm). Tuy nhiên, căng thẳng lãi suất không kéo dài, theo quan sát, từ cuối năm 2022 đến 2023, lãi suất liên ngân hàng đã được đưa về trạng thái tương đối ổn định so với thời điểm trước đó.

Bên cạnh đó, NHNN là đơn vị giám sát thị trường với nhiệm vụ công bố lãi suất liên ngân hàng hằng ngày. Tuy nhiên, với những phân tích tình hình biến động lãi suất cho thấy, lãi suất bình quân liên ngân hàng do NHNN thông báo ít có tính tham khảo mỗi ngày vì đi sau thị trường 2 ngày. Do tính chất của chế độ báo cáo theo Thông tư số 11/2018/TT-NHNN ngày 17/4/2018 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 của Thống đốc NHNN quy định Chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, báo cáo được các TCTD tạo 1 ngày sau ngày giao dịch và gửi về NHNN trễ nhất 14 giờ cùng ngày. Bên cạnh đó, việc mất cân xứng thông tin giữa các ngân hàng dẫn đến lãi suất chênh lệch cao giữa các phân khúc. Ở những giai đoạn cao điểm, mức chênh lệch này có thể lên đến 1 - 2% tùy vào mức độ khát vốn của các ngân hàng nhỏ.

Về hệ thống thanh toán

Tình hình giao dịch nội tệ liên ngân hàng qua tiểu hệ thống giá trị cao, tiểu hệ thống giá trị thấp và toàn hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng trong giai đoạn 2018 - 2023 được thể hiện ở Bảng 2.

Bảng 2: Tình hình giá trị giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng giai đoạn 2018 - 2023

Đơn vị tính: Nghìn món/Nghìn tỉ đồng

Nguồn: NHNN


Như vậy, mặc dù giao dịch có giá trị cao tăng khá nhiều những năm gần đây, tuy nhiên, số lượng giao dịch có mức tăng trưởng thấp và có xu hướng giảm từ năm 2020. Với xu hướng thanh toán qua tiểu hệ thống giá trị thấp, có thể thấy, số lượng giao dịch biến động không đều qua các năm (xu hướng giảm từ năm 2022) và giá trị giao dịch giảm từ năm 2020. Nguyên nhân của sự sụt giảm này có thể do nhiều yếu tố nhưng chủ yếu vẫn là dịch vụ chuyển tiền qua hệ thống thanh toán liên ngân hàng đang có một số điểm yếu hơn so với hệ thống bù trừ, chuyển mạch giao dịch tài chính của NAPAS (như thời gian hoàn thành xử lý giao dịch, truy vấn thông tin thẻ/tài khoản người nhận, phí giao dịch…).

Về tỉ trọng giao dịch qua các cấu phần khác của hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hiện nay, số lượng giao dịch giá trị thấp vẫn chiếm tỉ trọng chủ yếu (hơn 87%), số lượng giao dịch quyết toán theo lô và các giao dịch ngoại tệ USD và EUR chiếm tỉ trọng rất thấp do đặc thù của giao dịch quyết toán theo lô là không phát sinh nhiều, còn giao dịch ngoại tệ qua hệ thống thanh toán liên ngân hàng tuy có mức tăng trưởng cao trong năm 2022 nhưng vẫn còn tương đối nhỏ so với thị trường. (Hình 4)

Hình 4: Tỉ trọng số lượng giao dịch của các cấu phần trong hệ thống thanh toán liên ngân hàng


Nguồn: NHNN


Về khối lượng giao dịch, cấu phần thanh toán giá trị cao hiện nay vẫn chiếm tỉ trọng chủ yếu (khoảng 98,28%) vì hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia (hệ thống thanh toán xương sống của cả nền kinh tế) là hệ thống thanh toán các giao dịch có giá trị cao, nghĩa là các giao dịch chuyển vốn được chuyển qua đây nên giá trị tương đối lớn, trong khi đó các cấu phần còn lại chỉ chiếm khoảng 1% số lượng giao dịch. (Hình 5)

Hình 5: Tỉ trọng khối lượng giao dịch của các cấu phần trong
hệ thống thanh toán liên ngân hàng

Nguồn: NHNN


3. Một số khuyến nghị

Một là, khuyến khích thành viên thị trường tham gia các giao dịch mua hẳn/ mua kỳ hạn giấy tờ có giá.

Qua tham khảo kinh nghiệm các nước có thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển, có thể thấy, các quốc gia đều có tỉ lệ giao dịch mua hẳn/mua kỳ hạn giấy tờ có giá lớn (trên 70% tổng giá trị giao dịch/ngày). Nhận thấy, giao dịch mua bán lại các giấy tờ có giá có vai trò lớn trong quá trình đánh giá sự phát triển của thị trường do những giao dịch này thường đòi hỏi nhà đầu tư có chiến lược và kế hoạch đầu tư dài hạn và rõ ràng, khác với loại giao dịch cho vay và gửi tiền - thường là nhà đầu tư kỳ hạn ngắn và an toàn hơn.

Thực tế, các TCTD Việt Nam hiện nay thường nắm giữ đa dạng và khối lượng lớn các giấy tờ có giá. Tuy nhiên, vì gặp một vài hạn chế mà việc giao dịch giấy tờ có giá thường ít được sử dụng hơn. Một số đề xuất giúp khuyến khích các TCTD tích cực tham gia các giao dịch mua hẳn/mua kỳ hạn giấy tờ có giá hơn như sau:

Mặc dù năm 2019, Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA) đã giới thiệu phiên bản rút gọn của GMRA (Global Master Repurchase Agreement), nhưng cần đưa vào các điều khoản về bù trừ ròng khi chấm dứt hợp đồng do mất khả năng thanh toán theo Luật Phá sản. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Thông tư số 21/2012/TT-NHNN ngày 18/6/2012 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay, đi vay; mua, bán có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể: Xây dựng Repo chuẩn áp dụng thống nhất cho giao dịch mua lại giấy tờ có giá đối với tất cả thành viên thị trường tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế.

Theo các thành viên thị trường, lý do cho việc “không được ưa chuộng” đối với giao dịch Repo này có hai vấn đề. Thứ nhất, việc tăng mua ngoại tệ của NHNN khiến các ngân hàng dễ dàng hơn để tìm kiếm thanh khoản thông qua cho vay không có bảo đảm. Thứ hai, chi phí vận hành của Repo đã tăng cao hơn nhiều trong môi trường lãi suất thấp. Giao dịch Repo phải được xử lý thông qua HNX với mức phí lớn ở kỳ hạn mà các ngân hàng hoạt động sôi động nhất (từ 1 ngày đến 1 tháng). Theo Thông tư số 101/2021/TT-BTC ngày 17/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định giá dịch vụ trong lĩnh vực chứng khoán áp dụng tại Sở giao dịch chứng khoán và Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam, giá dịch vụ lưu ký đối với công cụ nợ theo quy định tại Luật Quản lý nợ công là 0,14 đồng/công cụ nợ/tháng, tối đa 1.400.000 đồng/tháng/mã công cụ nợ, giá dịch vụ chuyển khoản chứng khoán giữa các tài khoản của nhà đầu tư tại các thành viên lưu ký khác nhau: 0,3 đồng/1 chứng khoán/1 lần chuyển khoản/1 mã chứng khoán (tối đa 300.000 đồng/1 lần chuyển khoản/1 mã chứng khoán), giá dịch vụ giao dịch Repo đến 2 ngày: 0,00035% giá trị giao dịch, giá dịch vụ giao dịch Repo từ 3 đến 14 ngày: 0,00028% giá trị giao dịch, giá dịch vụ giao dịch Repo trên 14 ngày: 0,00042% giá trị giao dịch. Đối với các giao dịch Repo trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng (khoảng 100 tỉ đồng trở lên), mức phí giao dịch trên gần như tương đương với lãi suất được hưởng trong mỗi giao dịch. Do đó, cần nghiên cứu lại mức phí cho giao dịch Repo.

Các quy định quản lý thận trọng và chế độ kế toán đối với giao dịch Repo cũng có nghĩa là các giao dịch Repo làm giảm khả năng cung cấp các khoản vay của các ngân hàng (theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, Thông tư số 22/2019/TT-NHNN và Thông tư số 08/2020/TT-NHNN của Thống đốc NHNN). Ngoài ra, thanh toán giao dịch Repo là T+1, có nghĩa là thậm chí với các giao dịch Repo thì các ngân hàng vẫn cần dự báo và quản lý thanh khoản trước 1 ngày. Cần xúc tiến thực hiện thanh toán T+0 đối với giao dịch Repo sẽ tăng cường tính hiệu quả đối với việc quản lý thanh khoản hằng ngày của các ngân hàng.

Hai là, nâng cấp hệ thống thanh toán liên ngân hàng, định hướng tập trung.

Cần dự tính mức độ, quy mô phát triển của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng để đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của nền kinh tế, cũng như khả năng phát triển cấu phần thanh toán giá trị thấp (LV) để “dự phòng một phần khối lượng xử lý thanh toán cho hệ thống thanh toán bù trừ bán lẻ của NAPAS” theo chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng NHNN; mặt khác, cần hướng tới phát triển hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng là trung tâm thanh quyết toán các giao dịch thanh toán đa tệ, giao dịch thanh toán tiền chứng khoán với đầy đủ tính năng, dịch vụ của hệ thống thanh toán bán buôn.

Ba là, nâng cao chất lượng giám sát thị trường liên ngân hàng của NHNN thông qua việc hoàn thiện khung khổ giám sát của NHNN, trong đó thể hiện rõ đối tượng, phạm vi giám sát của NHNN bao gồm: Các hệ thống thanh toán quan trọng, hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán, các hệ thống thanh toán được chỉ định, việc kết nối, hợp tác với các tổ chức, hệ thống thanh toán ở nước ngoài; xây dựng, triển khai Bộ chỉ tiêu giám sát dựa trên rủi ro, trong đó các chỉ tiêu nhận diện và cảnh báo sớm các rủi ro đối với hoạt động của các hệ thống thanh toán, hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán; xây dựng, triển khai hệ thống, công cụ giám sát trực tuyến, kịp thời, tự động hóa. Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về các đối tượng giám sát, về các tài khoản thanh toán, ví điện tử, thẻ ngân hàng. Nâng cao năng lực giám sát hệ thống thanh toán, trong đó: Hoàn thiện tổ chức bộ máy, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hoạt động giám sát của NHNN; xây dựng Sổ tay giám sát. Hoàn thiện chức năng giám sát của NHNN đối với các hệ thống thanh toán quan trọng trong nền kinh tế, phù hợp các chuẩn mực giám sát theo các nguyên tắc do Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) và Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán (IOSCO); xây dựng, bảo đảm các hệ thống thanh toán quốc gia hoạt động an toàn, hiệu quả và thông suốt; giám sát hiệu quả các hoạt động thanh toán xuyên biên giới, thanh toán quốc tế; giám sát việc cung ứng các phương tiện, dịch vụ thanh toán và quyết toán đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Bốn là, thay đổi thời gian công bố lãi suất liên ngân hàng trên website NHNN: Muộn nhất là 17h cuối ngày giao dịch; phát triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng giúp cung cấp số liệu chính xác và tức thời. Đồng thời, tự động lọc ra các giao dịch bất thường (chênh lệch lớn so với tình hình chung về lãi suất và khối lượng quá lớn so với quy mô của ngân hàng) và lập thành một báo cáo riêng về các giao dịch này để đơn vị thực hiện tra soát hoặc yêu cầu kiểm tra giao dịch nếu thấy bất thường; tất cả các hệ thống thanh toán do NHNN cấp phép đều phải có kết nối với hệ thống chung của NHNN và có hệ thống cảnh báo tức thời giúp NHNN khai thác ngay thông tin khi cần mà không cần liên lạc với đơn vị chủ quản, đồng thời nhận được tín hiệu khi có các giao dịch bất thường; thêm vào đó, cần phổ biến rộng rãi hơn nữa dịch vụ thanh toán ngoại tệ của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng: Khuyến khích các đơn vị tham gia và cập nhật dịch vụ dễ sử dụng và tiện lợi hơn để kiểm soát tốt hơn cung cầu ngoại tệ, từ đó, lãi suất trong nước duy trì ổn định hơn.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị định số 102/2022/NĐ-CP ngày 12/12/2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN.
2. Thông tư số 08/2020/TT-NHNN ngày 14/8/2020 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 của Thống đốc NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 của Thống đốc NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
4. Thông tư số 20/2018/TT-NHNN ngày 30/8/2018 của Thống đốc NHNN quy định về giám sát các hệ thống thanh toán.
5. Thông tư số 26/2020/TT-NHNN ngày 31/12/2020 của Thống đốc NHNN quy định việc phát ngôn và cung cấp thông tin của NHNN.
6. Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
7. Website BIS (The Bank for International Settlements).
8. Website NHNN - sbv.gov.vn

Bùi Thị Mến (Học viện Ngân hàng)
Trương Thảo Anh, Đặng Sao Mai (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng