Phát triển ngân hàng xanh trong bối cảnh mới

Thị trường tài chính
Biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu đã và đang tạo áp lực ngày càng khốc liệt lên môi trường và các nền kinh tế, buộc nhiều quốc gia phải lựa chọn tăng trưởng xanh là con đường tất yếu, phương thức duy nhất để đạt mục tiêu phát triển bền vững.
aa

Tóm tắt: Phát triển ngân hàng xanh không chỉ là mục tiêu mà đang dần trở thành xu hướng tất yếu; không chỉ mang tính khuyến khích mà dần trở thành yêu cầu của thực tiễn. Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam đã đánh dấu hướng đi rõ nét đầu tiên cho ngành Ngân hàng, khi đặt ra mục tiêu tổng quát phát triển ngân hàng xanh đến năm 2025 là tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng đối với việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Trong thời gian qua, toàn hệ thống ngân hàng đã nỗ lực và chủ động vào cuộc hướng tới phát triển ngân hàng xanh bền vững.

Từ khóa: Ngân hàng, ngân hàng xanh, tăng trưởng xanh.

DEVELOPING GREEN BANKING IN THE NEW CONTEXT

Abstract: The development of green banking is not only a goal but also is gradually becoming an inevitable trend, not only encouraging but also gradually becoming a requirement of practice. Decision No. 1604/QD-NHNN dated 07/08/2018 promulgating the green banking scheme in Vietnam has marked the first clear direction for the banking industry when it has set the general goal of green banking development to 2025 is to increase the awareness and social responsibility of the banking system towards environmental protection, combating climate change; directing credit capital flows to finance environmentally friendly projects, promoting the green consumption, services and production, clean energy and renewable energy; contributing to promoting green growth. In recent years, the entire banking system has made efforts and actively participated in developing sustainable green banks.

Keywords: Bank, green banking, green growth.

1. Vai trò của ngân hàng xanh đối với tăng trưởng xanh

Biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu đã và đang tạo áp lực ngày càng khốc liệt lên môi trường và các nền kinh tế, buộc nhiều quốc gia phải lựa chọn tăng trưởng xanh là con đường tất yếu, phương thức duy nhất để đạt mục tiêu phát triển bền vững. Tăng trưởng xanh là việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời, bảo đảm rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên tiếp tục cung cấp các nguồn lực và dịch vụ môi trường cần thiết gắn với con người (OECD, 2022). Hay nói cách khác, tăng trưởng xanh là tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội toàn diện, bền vững môi trường với ít carbon (UNESCAP, ADB, UNEP, 2012).

Sự đóng góp của ngân hàng với tăng trưởng xanh thể hiện ở hai khía cạnh:

Thứ nhất, ngân hàng là một trong các trung gian với vai trò cầu nối trên thị trường vốn, tham gia vào quá trình đánh giá và quản lý rủi ro các dự án đầu tư, trong đó bao gồm cả rủi ro môi trường và xã hội. Vì vậy, ngân hàng xanh đóng vai trò trọng yếu trong việc cấp tín dụng xanh, giúp “xanh hóa dòng vốn đầu tư”, góp phần thúc đẩy các dự án thân thiện với môi trường. Ngoài ra, xuất phát từ việc rủi ro môi trường và khí hậu có thể truyền tải thành rủi ro của hệ thống tài chính, do đó, việc chuyển đổi mô hình từ kinh tế nâu sang kinh tế xanh cũng đồng thời tạo ra một môi trường hoạt động ít rủi ro, qua đó, thúc đẩy hệ thống tài chính phát triển bền vững.

Thứ hai, bản thân việc “xanh hóa hoạt động ngân hàng” cũng có tác động trực tiếp theo hướng tích cực tới môi trường. Điều này thể hiện chủ yếu thông qua việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng điện tử như Internet Banking, Mobile Banking, phát triển hệ thống giao dịch tự động. Đồng thời, việc khuyến khích khách hàng dịch chuyển từ sử dụng các dịch vụ ngân hàng truyền thống đến tự mình trải nghiệm các hoạt động ngân hàng trên kênh số sẽ giúp tiết kiệm đáng kể các tài nguyên thông qua mô hình ngân hàng không giấy tờ, giảm mức độ phát thải thông qua giảm các hoạt động dịch chuyển, chi phí vận hành… Quá trình xanh hóa nội bộ ngân hàng cũng được đề cập như một cấu phần của ngân hàng xanh với nhiều hoạt động thực tiễn như số hóa các quy trình nội bộ, áp dụng những nguyên tắc về tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu trong mỗi hoạt động tại ngân hàng. Thông qua đó, xanh hóa hoạt động ngân hàng cũng góp phần xanh hóa nền kinh tế.

2. Những kết quả đã đạt được của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong phát triển ngân hàng xanh

Chủ động tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng với tăng trưởng xanh thông qua hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách, định hướng hoạt động toàn Ngành

Bám sát định hướng của Chính phủ về tăng trưởng xanh hướng tới mục tiêu phát triển bền vững1, trong thời gian qua, NHNN đã ban hành nhiều văn bản tạo hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động phát triển ngân hàng xanh: (i) Lồng ghép nội dung về định hướng phát triển tín dụng xanh - ngân hàng xanh vào nội dung của Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ).

(ii) Đặt mục tiêu phấn đấu cụ thể đến năm 2025 theo Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam (Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc NHNN và Quyết định số 1663/QĐ-NHNN ngày 06/8/2024 sửa đổi, bổ sung), trong đó: (1) Từng bước nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn xanh của các tổ chức tín dụng (TCTD), tăng dần tỉ trọng vốn tín dụng cho các dự án thuộc danh mục phân loại xanh quốc gia; (2) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ đi cùng với xây dựng thói quen thân thiện với môi trường cho khách hàng trong khuôn khổ hoạt động ngân hàng, phát triển mạnh các kênh giao dịch điện tử, các dịch vụ, phương thức thanh toán mới trên nền tảng công nghệ hiện đại; (3) Ngày càng có nhiều TCTD thực hiện quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, dần tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế.

(iii) Tiếp tục ban hành kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 (Quyết định số 1408/QĐ-NHNN ngày 26/7/2023 của Thống đốc NHNN). Kế hoạch đã đặt ra 7 nhiệm vụ, giải pháp thực hiện đến năm 2030 có tính bao trùm: (1) Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh; (2) Hợp tác quốc tế nhằm đẩy mạnh huy động nguồn lực cho tăng trưởng xanh; (3) Đẩy mạnh chuyển đổi số; (4) Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực đối với yêu cầu chuyển đổi xanh; (5) Công tác thông tin, truyền thông về hoạt động của ngành Ngân hàng góp phần thực hiện tăng trưởng xanh; (6) Nghiên cứu, thành lập diễn đàn chung về tài chính xanh của ngành Ngân hàng; (7) Đẩy mạnh thực hiện mua sắm xanh trong hoạt động mua sắm công.

(iv) Bổ sung quy định nhiệm vụ, giải pháp về tín dụng xanh, ngân hàng xanh nhằm thúc đẩy vốn tín dụng ngân hàng vào các ngành sản xuất và tiêu dùng ít carbon tại Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó nhiệm vụ đặt ra yêu cầu nghiên cứu, ban hành các chính sách ưu đãi, cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các TCTD thúc đẩy tín dụng xanh, ngân hàng xanh, những ngành sản xuất và tiêu dùng ít carbon; phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trên cơ sở tận dụng các thành tựu khoa học, công nghệ 4.0 để xanh hóa hoạt động ngân hàng.

(v) Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Luật Bảo vệ môi trường, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; theo đó, hướng dẫn và yêu cầu TCTD phải xây dựng quy định nội bộ để quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng độc lập hoặc lồng ghép trong quy định nội bộ về cấp tín dụng và quy định nội bộ về kiểm soát nội bộ của TCTD, phù hợp với các quy định của pháp luật về hoạt động cấp tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng. Đồng thời, NHNN đã ban hành Sổ tay hướng dẫn đánh giá các rủi ro môi trường và xã hội đối với 15 ngành kinh tế có rủi ro cao.

Từ những chính sách, cơ chế, quy định, yêu cầu của NHNN, các TCTD đã tuân thủ và chủ động chỉ đạo định hướng hoạt động kinh doanh trong toàn hàng với ngân hàng xanh từ cấp chiến lược ban điều hành. Đối chiếu khung tham chiếu về chiến lược ngân hàng xanh với 5 cấp độ2 của Kaeufer (2010) được đặt ra tại Đề án phát triển ngân hàng xanh, chủ yếu các ngân hàng Việt Nam đang xây dựng chiến lược ở cấp độ 2 tập trung phát triển các sản phẩm, dịch vụ xanh riêng biệt và cấp độ 3 điều chỉnh cơ cấu, mô hình tổ chức hướng tới ngân hàng xanh. Một số ngân hàng thương mại (NHTM) quy mô lớn đã đạt được cấp độ 3 và có kế hoạch hướng đến cấp độ cao hơn trong ngắn hạn. Ngoài ra, trong dài hạn (2026 - 2030), một số ngân hàng đặt mục tiêu đạt đến cấp độ 4 và cấp độ 5 (NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM cổ phần Quân đội (MB), NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB), NHTM cổ phần Sài Gòn Công Thương (Saigonbank)), trong đó hướng tới không chỉ giới hạn ở các nghiệp vụ riêng lẻ mà nâng tầm phát triển các hệ sinh thái và tạo chuỗi cung ứng xanh. Đây là những kết quả rất đáng ghi nhận, thể hiện sự quyết tâm, chủ động, sự tăng cường nhận thức và hành động của toàn Ngành hướng tới ngân hàng xanh.

Từng bước nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn xanh của các TCTD và tỉ trọng vốn tín dụng cho những dự án thuộc danh mục phân loại xanh quốc gia ngày càng gia tăng

Giai đoạn 6 năm (từ năm 2017 đến hết năm 2023)3, dư nợ cấp tín dụng bình quân của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh đạt mức tăng trưởng hơn 22%/năm. Tính đến ngày 31/3/2024, đã có 47 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh, đạt 636.964 tỉ đồng, tăng 2,6% so với cuối năm 2023 (620.984 tỉ đồng) và tăng 24% so với cuối năm 2022; tỉ trọng tín dụng xanh chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế4, tập trung chủ yếu vào ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (gần 30%). Dư nợ đã được đánh giá rủi ro môi trường đạt khoảng 2,9 triệu tỉ đồng, chiếm hơn 21% tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế.

Như vậy, đến nay, mặc dù bị ảnh hưởng nhất định từ bối cảnh vĩ mô, những thách thức về khung khổ pháp lý, khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn xanh, trình độ, kỹ năng của các cán bộ về nghiệp vụ ngân hàng xanh, tín dụng xanh… song, mục tiêu tăng tỉ trọng vốn tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh đã từng bước đạt được tăng trưởng theo định hướng đề ra, trong đó nhóm NHTM và Ngân hàng Chính sách xã hội tiếp tục là động lực chính cho tăng trưởng tín dụng xanh; nhóm chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính vi mô, công ty tài chính có đóng góp không đáng kể cho tín dụng xanh do có những hạn chế về đặc điểm hoạt động và khách hàng.

Việc xanh hóa hoạt động ngân hàng thông qua ứng dụng công nghệ đi cùng với xây dựng thói quen thân thiện với môi trường cho khách hàng được thúc đẩy và phát triển mạnh mẽ

Bám sát chủ trương, chính sách, chỉ đạo điều hành của NHNN, nhiều TCTD đã chủ động ban hành chiến lược chuyển đổi số, coi đây là một trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển, nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh và đạt được hiệu quả kinh doanh. Cùng với đó, các TCTD tập trung đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin và phát triển những sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ; thiết lập hệ sinh thái số kết nối với các ngành, lĩnh vực khác để cung ứng nhiều sản phẩm, dịch vụ xuyên suốt, liền mạch, an toàn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Đến cuối năm 2024, hơn 87% người trưởng thành đã có tài khoản thanh toán tại ngân hàng, hầu hết dịch vụ ngân hàng đã được thực hiện trên kênh số với tỉ lệ đạt trên 95% (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn; mở và sử dụng tài khoản thanh toán; thẻ ngân hàng; ví điện tử; chuyển tiền; quản lý nhân sự; kế toán - tài chính…); giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt bình quân hằng ngày (qua các kênh thẻ ngân hàng, Internet Banking, Mobile Banking) đạt kỷ lục trên 26,2 triệu giao dịch với giá trị trên 166.000 tỉ đồng, tăng trưởng bình quân về số lượng và giá trị giao dịch thanh toán qua di động và QR Code trên 100%/năm giai đoạn 2018 - 2023; đến cuối tháng 11/2024, hơn 60 triệu tài khoản của khách hàng cá nhân trên tổng số gần 200 triệu tài khoản thanh toán cá nhân đã được thu thập, đối chiếu thông tin sinh trắc học thành công, tạo điều kiện tăng cường an toàn bảo mật và giảm thiểu rủi ro giao dịch gian lận cho khách hàng5.

Các công nghệ hiện đại của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) như trí tuệ nhân tạo (AI - Artificial Intelligence)6, học máy (ML - Machine Learning)7, tự động hóa bằng robot (RPA - Robotic Process Automation)8, công nghệ thực tế tăng cường (AR - Augmented Reality)9... đã được các TCTD ứng dụng mạnh mẽ và rộng rãi vào những dịch vụ ngân hàng cốt lõi (thanh toán, tín dụng, nhận tiền gửi...), nhằm tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động, trải nghiệm giao dịch khách hàng và tích hợp với nhiều hệ sinh thái đối tác khác nhau trong nhiều lĩnh vực.

Trong hoạt động nội bộ, các TCTD đã chủ động xây dựng môi trường làm việc xanh thông qua việc tăng cường sử dụng nhiều thiết bị, công cụ tiết kiệm điện, giảm phát thải, nâng cao ý thức của toàn thể cán bộ, nhân viên qua các phong trào xây dựng môi trường làm việc xanh. Theo khảo sát của NHNN, trên 20 NHTM hiện đã có quy định nội bộ về môi trường làm việc xanh. Nhiều NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện tuyên truyền, khuyến khích cán bộ xây dựng môi trường làm việc xanh như các chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí10; quy định tiêu chuẩn làm việc 5S11; quản lý chặt chẽ chi phí năng lượng12; một số ngân hàng đã đưa các chỉ tiêu về tiết kiệm vào KPI để đánh giá nhân viên định kỳ hoặc theo dõi mức tiêu thụ của nhân viên qua tài khoản riêng13. Một số NHTM hiện đang triển khai xây dựng công trình, trụ sở theo tiêu chuẩn xanh và đầu tư các trang thiết bị hiện đại, thân thiện với môi trường14. Đồng thời, hầu hết các đơn vị đều tích cực tham gia, ủng hộ và tài trợ cho nhiều phong trào cộng đồng về ngân hàng xanh, tăng trưởng xanh.

Ngày càng có nhiều TCTD thực hiện quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, dần tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế

Tính đến cuối năm 2024, đã có 100% NHTM trong nước xây dựng quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường; các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện dựa trên hệ thống, quy định từ tập đoàn/ngân hàng mẹ. Đồng thời, 100% NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã thực hiện đánh giá rủi ro môi trường đối với một phần hoặc toàn bộ các khoản vay. Tính đến cuối tháng 12/2024, đã có khoảng 17 TCTD có đơn vị/bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường và xã hội, tập trung ở nhóm NHTM, một số ngân hàng có kế hoạch/dự kiến thành lập bộ phận này trong giai đoạn 2025 - 2026.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng cần nhìn nhận các hạn chế, thách thức trong quá trình chuyển đổi ngân hàng xanh đang và sẽ phải tiếp tục đối mặt là: (i) Khung pháp lý chưa hoàn thiện về danh mục dự án đầu tư xanh, quy định về quản lý rủi ro xã hội hay cơ chế hỗ trợ, khuyến khích cho các ngành, lĩnh vực xanh; (ii) Việc triển khai còn mang tính phân mảnh, chưa đồng bộ, đồng đều ở các ngân hàng do nhiều yếu tố liên quan đến vốn, định hướng chiến lược, kỹ thuật, công nghệ phân hóa phụ thuộc quy mô, nguồn lực và nhận thức của từng đơn vị; (iii) Cơ sở dữ liệu ngân hàng xanh chưa hoàn thiện do còn thiếu và yếu nguồn dữ liệu tin cậy, độc lập về chỉ số như môi trường, xã hội; các TCTD gặp khó trong việc thống kê, công bố kết quả tín dụng xanh; (iv) Chi phí xây dựng bộ máy phải gia tăng do ngân hàng cần xây dựng, thiết kế đơn vị/bộ phận chuyên trách đánh giá rủi ro môi trường, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

3. Phát triển ngân hàng xanh trong bối cảnh mới

Trên toàn cầu, các quốc gia đang dịch chuyển sang nền kinh tế xanh trước những hậu quả ngày càng nghiêm trọng đối với hệ sinh thái, kinh tế, xã hội từ những vấn đề tiêu cực do môi trường và biến đổi khí hậu mang lại, đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất mà nhân loại phải đối mặt. Các khu vực và nền kinh tế quốc tế ngày càng khuyến khích sự phát triển của những ngành công nghiệp ít phát thải carbon và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế đã và đang nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hỗ trợ những sáng kiến xanh qua nhiều sản phẩm tài chính bền vững như trái phiếu xanh, khoản vay xanh, quỹ đầu tư xanh và các công cụ tài chính số.

Tại Việt Nam, Chính phủ đã khẳng định sự chủ động ứng phó đối với các vấn đề môi trường thông qua việc quyết liệt thực hiện các mục tiêu đã cam kết tại COP26, trong đó đặt mục tiêu giảm thiểu phát thải và sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, đặc biệt là cam kết Net-Zero vào năm 2050, đồng thời cam kết thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp bền vững, sử dụng công nghệ sạch và năng lượng tái tạo.

Cùng với đó, tổng thể nền kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam đang bước sang giai đoạn đặc biệt quan trọng, đó là kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu của kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao, khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Chuyển đổi xanh được xem là một trong những định hướng chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên mới, bao gồm: (i) Đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển; (ii) Tập trung xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (iii) Tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh); (iv) Khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số, đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi xanh, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.

Nhìn từ thực tiễn đã đạt được những năm qua, trong bối cảnh cơ hội và thách thức mới của nền kinh tế toàn cầu và Việt Nam sẽ đối mặt, đồng thời tham khảo kinh nghiệm đã triển khai của một số quốc gia15, các khuyến nghị phát triển ngân hàng xanh trong thời gian tới cần tiếp tục được xem xét:

Một là, Chính phủ có vai trò quan trọng đầu tiên và định hướng để triển khai thành công hoạt động ngân hàng xanh, tín dụng xanh. Vai trò này được thể hiện thông qua việc: (i) Ban hành các chính sách, văn bản về bộ tiêu chí xanh quốc gia, danh mục ngành kinh tế xanh tích hợp vào hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, tương đồng hoặc tiệm cận dần giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam với quốc tế; các chính sách hỗ trợ về thuế, đầu ra sản phẩm…; (ii) Điều phối sự tham gia của các bên liên quan để sớm ban hành những quy định về tài chính xanh cho tất cả định chế tài chính; (iii) Tăng cường hợp tác, huy động nguồn lực tài chính xanh từ các tổ chức, định chế tài chính ngân hàng quốc tế. Các định hướng phát triển mang tính dài hạn và các chính sách hỗ trợ của Chính phủ sẽ là điều kiện cần thiết để các chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh và ngân hàng xanh phát huy hiệu quả.

Hai là, cần xác định, lựa chọn mô hình phát triển ngân hàng xanh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Ngân hàng xanh có thể tồn tại theo mô hình ngân hàng thông thường gắn liền với trách nhiệm xã hội, mục tiêu phát triển bền vững thông qua việc chuyển đổi tư duy cung ứng sản phẩm, dịch vụ, quy trình nội bộ, cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin theo hướng hỗ trợ tốt hơn cho việc giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường như mô hình ngân hàng xanh First Green Bank (Mỹ), Triodos (Hà Lan), GLS Bank (Đức)... hoặc mô hình ngân hàng xanh được hình thành và hiện diện là một tổ chức tài chính chuyên biệt, thường được tài trợ bởi ngân sách công, với mục tiêu thúc đẩy đầu tư vào cơ sở hạ tầng thích ứng biến đổi khí hậu, phát thải ít carbon như mô hình Ngân hàng Đầu tư xanh GIB (Anh), Ngân hàng Tái thiết KfW (Đức). Việc lựa chọn mô hình phù hợp sẽ định hướng lối đi, cách thức vận hành và phát triển ngân hàng xanh trong tương lai.

Ba là, ngành Ngân hàng cần tiếp tục kiện toàn hệ thống văn bản pháp lý và bổ sung những cơ chế có tính chất nổi trội, khuyến khích và thúc đẩy các ngân hàng thành viên phát triển tín dụng xanh và xanh hóa hoạt động ngân hàng. Cụ thể như: (i) Ban hành hướng dẫn về hoạt động ngân hàng xanh; (ii) Hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội tại các văn bản quy định pháp lý liên quan, tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế; (iii) Thực hiện đánh giá rủi ro tài chính liên quan đến môi trường, lồng ghép các rủi ro này vào khuôn khổ quản lý rủi ro vĩ mô thị trường tiền tệ; (iv) Phối hợp với các bộ, ngành chức năng để phát triển hệ thống thông tin dữ liệu phục vụ dự báo, cảnh báo và quản lý rủi ro môi trường, biến đổi khí hậu.

Bốn là, vai trò của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trong việc hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc thực thi chính sách này là đặc biệt quan trọng. Chẳng hạn như thúc đẩy và giám sát các TCTD thực hiện, công bố báo cáo đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đối với danh mục đầu tư, báo cáo phát triển bền vững cần được duy trì có tính định kỳ; khuyến nghị lộ trình bắt buộc đưa nội dung đánh giá về rủi ro môi trường và xã hội vào báo cáo kiểm toán.

Năm là, quá trình triển khai hoạt động ngân hàng xanh đòi hỏi sự thích ứng và chuyển đổi rất lớn về mặt quản trị ngân hàng, từ việc xây dựng, triển khai chiến lược kinh doanh ngân hàng đến việc xây dựng, áp dụng các nguyên tắc phát triển ngân hàng bền vững. Cùng với đó là tạo tiềm lực tài chính xanh, đẩy mạnh chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, duy trì và đột phá trong hoạt động của toàn hàng, đào tạo nguồn nhân lực cho toàn bộ chu trình từ định hướng, thiết kế, phát triển, nghiệm thu đến triển khai cung ứng sản phẩm, dịch vụ tới khách hàng bên ngoài và người dùng nội bộ.

4. Kết luận

Việt Nam đang bước vào thời kỳ chuyển mình mang tính lịch sử, giai đoạn từ nay đến năm 2030 là giai đoạn đặc biệt quan trọng, cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược, giai đoạn nước rút để đạt được mục tiêu 100 năm thành lập đất nước, 75 năm thành lập ngành Ngân hàng. Cuộc CMCN 4.0, nhất là trí tuệ nhân tạo, công nghệ số, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc và bền vững. Ngành Ngân hàng cần tận dụng thời cơ, thuận lợi từ sự chuyển biến có tính thời đại này mang lại nhằm tiếp tục định hướng phát triển ngân hàng xanh trong bối cảnh mới.

1 Quyết định số 403/2014/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020; Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030; Quyết định số 882/QĐ-TTg ngày 22/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030; Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050; Quyết định số 888/QĐ-TTg ngày 25/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu - COP26.

2 5 cấp độ ngân hàng xanh theo Đề án như sau: Cấp độ 1: Thực hiện các hoạt động bổ trợ, tài trợ cho các sự kiện “xanh” và tham gia các hoạt động công cộng. Cấp độ 2: Tách bạch phát triển các dự án và hoạt động kinh doanh, trong đó ngân hàng phát triển thêm các sản phẩm, dịch vụ xanh riêng biệt bổ sung vào danh mục sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống. Cấp độ 3: Hoạt động kinh doanh có hệ thống, trong đó hầu hết quy trình, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tuân thủ nguyên tắc xanh, cơ cấu tổ chức của ngân hàng được thiết kế để hỗ trợ tác động “xanh” trên các giác độ: Mục tiêu hoạt động, nguyên tắc hoạt động, nhân sự và cơ cấu tổ chức, quy trình hoạt động. Cấp độ 4: Sáng kiến cân bằng sinh thái tầm chiến lược. Hoạt động ngân hàng xanh không chỉ giới hạn ở phạm vi các nghiệp vụ đơn lẻ mà được mở rộng thành mạng lưới, liên minh, đối thoại cộng đồng hay toàn thể hệ sinh thái nhằm đạt được tính bền vững của các yếu tố xã hội, môi trường và tài chính. Cấp độ 5: Sáng kiến cân bằng sinh thái chủ động, trong đó các hoạt động ngân hàng xanh tương tự như cấp độ 4, nhưng được thực hiện một cách có mục đích, không chỉ là các hoạt động ứng phó với thay đổi bên ngoài như cấp độ 4.

3 Số liệu do Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN cung cấp.

4 Cuối năm 2022, tỉ trọng tín dụng xanh trong tổng dư nợ toàn nền kinh tế đạt khoảng 4,2%; năm 2023, tỉ lệ này là 4,5%.

5 Báo cáo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2025 của NHNN ngày 14/12/2024.

6 Vietcombank, VietinBank, BIDV, MB, Techcombank, VPBank, Eximbank, SeaBank, OCB

7 Techcombank, TPBank, VPBank, SeaBank…

8 BAC A BANK, ACB...

9 VIB.

10 PVcomBank ban hành Chỉ thị chống lãng phí; ABBank triển khai chiến dịch “ABBank chung tay tiết kiệm điện”...

11 VPBank, Eximbank, HDBank…

12 BIDV, VPBank, ACB, Sacombank…

13 E.Sun Kookmin Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

14 MB, HSBC, Techcombank, UOB Việt Nam…

15 Đức, Mỹ, Anh, Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Hà Lan, Hồng Kông.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2025.

2. Báo cáo kết quả thực hiện Đề án phát triển ngân hàng xanh năm 2022, 2023.

3. Nguyễn Kim Anh, 2023. Ngân hàng với tăng trưởng xanh, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam.

4. Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020; Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn 2030; Quyết định số 882/QĐ-TTg ngày 22/7/2022 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030; Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050; Quyết định số 888/QĐ-TTg ngày 25/7/2022 phê duyệt Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu; Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

5. Các Quyết định của Thống đốc NHNN: Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018, Quyết định 1663/QĐ-NHNN ngày 06/8/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1604/QĐ-NHNN phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam; Quyết định số 1731/QĐ-NHNN ngày 31/8/2018 ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; Quyết định số 1408/QĐ-NHNN ngày 26/7/2023 về việc ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu; Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 Hướng dẫn quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

TS. Nguyễn Thị Hòa
Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng, NHNN

Tin bài khác

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Đề án nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam không chỉ là một dấu mốc kỹ thuật trong phân loại quốc tế, mà còn góp phần tăng quy mô vốn hóa và thanh khoản ổn định, nâng cao chất lượng doanh nghiệp niêm yết, củng cố năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng, đồng thời cải thiện vị thế và hình ảnh quốc gia trên bản đồ tài chính toàn cầu.
Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng thông qua giáo dục tài chính là rất cần thiết nhằm nâng cao dân trí tài chính, giúp người dân hiểu rõ hơn về các kiến thức liên quan, tiếp cận công cụ tài chính an toàn, quản lý tài chính cá nhân hiệu quả và giảm thiểu rủi ro từ tín dụng đen và các hình thức lừa đảo, đặc biệt là lừa đảo trực tuyến.
Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết về một mô hình quản trị linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Giang, giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng cường tính minh bạch, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon là cơ chế áp thuế carbon lên hàng hóa nhập khẩu vào EU, với mục đích bảo đảm rằng hàng hóa sản xuất bên ngoài EU không được hưởng lợi từ việc phát thải cao hơn tiêu chuẩn của EU, được đề xuất chính thức vào tháng 7/2021 và bắt đầu áp dụng thử nghiệm vào năm 2023, với việc triển khai toàn diện dự kiến từ năm 2026.
Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Bài viết này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò như một nền tảng khởi đầu, góp phần đặt ra vấn đề triển khai bước đầu cho cơ chế giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn tiếp tục mở rộng đối thoại học thuật và thực tiễn, thu hút sự tham gia của cộng đồng nghiên cứu, giới chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng trao đổi, làm rõ và phát triển các yếu tố pháp lý - công nghệ - vận hành cần thiết cho việc hiện thực hóa cơ chế này trong thời gian tới.
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Trong kỷ nguyên số hóa toàn diện, hành vi tiêu dùng đang chuyển dịch mạnh mẽ, đặc biệt trong phương thức thanh toán, mô hình mua trước trả sau ngày càng phổ biến nhờ tính linh hoạt, không yêu cầu thẻ tín dụng và không phát sinh lãi suất trong ngắn hạn.
Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Tại Việt Nam, hầu hết doanh nghiệp vẫn đối mặt với thách thức về dự báo dòng tiền và quản lý vốn lưu động, dẫn đến áp lực về thanh toán và chi phí vốn cao. Do đó, việc học tập kinh nghiệm quản trị dòng tiền của các doanh nghiệp lớn trên thế giới là điều cần thiết giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao hiệu quả sử dụng dòng tiền, góp phần cải thiện năng lực tài chính và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển không ngừng của công nghệ, tài chính số đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Tài chính toàn diện - với mục tiêu bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính chất lượng và chi phí phải chăng, đang ngày càng được quan tâm trên toàn thế giới. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được tài chính toàn diện là hiểu biết tài chính số, giúp người dân có thể tận dụng các công cụ và dịch vụ tài chính hiện đại một cách hiệu quả.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô