Phát triển kinh tế xanh - Từ nhận thức, chính sách đến thực tiễn ở Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Kinh tế xanh là sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
aa

Tóm tắt: Kinh tế xanh là sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Cho nên, phát triển kinh tế xanh góp phần hiện thực hóa sự kết hợp giữa các yếu tố trên, đồng thời góp phần nâng cao đời sống của con người, cải thiện môi trường xã hội và giảm thiểu những rủi ro về môi trường. Bài viết làm rõ về quá trình nhận thức và thực tiễn phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam; từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam theo hướng bền vững thời gian tới.

Từ khóa: Chiến lược phát triển kinh tế; kinh tế xanh; phát triển bền vững.

GREEN ECONOMIC DEVELOPMENT - FROM AWARENESS, POLICY TO PRACTICE IN VIETNAM

Abstract: Green economy is a harmonious combination of economic - social - environmental factors towards the goal of sustainable development. Therefore, green economic development contributes to realizing the combination of the above factors, while contributing to improving people’s lives, improving the social environment and minimizing environmental risks. The article clarifies the process of awareness and practice of green economic development in Vietnam; thereby, proposing a number of key solutions to promote green economic development in Vietnam towards sustainability in the next time.

Keywords: Economic development strategy, green economy, sustainable development.

1. Đặt vấn đề

Phát triển kinh tế xanh đã trở thành xu hướng phát triển của các nước trên thế giới nhằm ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và những tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, phát triển kinh tế xanh vừa bảo đảm mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế, vừa bảo vệ môi trường và tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự đồng hành của các bộ, ngành nên quá trình triển khai và thực hiện phát triển kinh tế xanh đã đạt được hiệu quả bước đầu.

Tuy nhiên, phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Đó là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng năng suất, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ chưa nhanh; thiếu nguồn lực tài chính, khoa học và công nghệ chất lượng cao, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu… Do vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển kinh tế xanh gắn với phát triển bền vững đất nước một cách toàn diện để vừa đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái cho thế hệ tương lai.

2. Quá trình nhận thức về phát triển kinh tế xanh


Theo Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc (2011), kinh tế xanh là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người, bảo đảm công bằng xã hội và giảm thiểu đáng kể các nguy cơ về môi trường, sinh thái. Đó là nền kinh tế giảm phát thải khí carbon, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm công bằng xã hội”1. Cùng quan niệm trên, theo Adarina và cộng sự (2019), kinh tế xanh là mô hình nền kinh tế hướng tới nâng cao phúc lợi của con người và bảo đảm an sinh xã hội, công bằng, giảm thiểu đáng kể các rủi ro suy thoái về môi trường2.

Tại Việt Nam, thời gian gần đây có nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế xanh. Theo Lê Quốc Lý (2014): “Kinh tế xanh là nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái”3. Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Hoàn và cộng sự (2022) cho rằng: “Kinh tế xanh là nền kinh tế hướng đến phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế xanh dựa trên ba trụ cột gồm: Phát triển kinh tế; bền vững môi trường và gắn kết xã hội”4.

Từ các quan niệm trên có thể hiểu, phát triển kinh tế xanh là quá trình phát triển nền kinh tế theo hướng bền vững, nâng cao chất lượng sống của con người, bảo đảm ổn định xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên.

Tại Việt Nam, phát triển kinh tế xanh được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã “xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư..., chuyển đổi các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên, năng lượng sang các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp phát thải carbon thấp”5.

Quán triệt quan điểm của Đảng, Chính phủ đã ban hành “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Có thể nói, đây là Chiến lược quốc gia đầu tiên, toàn diện đến lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam, tạo tiền đề và căn cứ pháp lý quan trọng để các bộ, ngành Trung ương và địa phương thực hiện tăng trưởng kinh tế dựa trên nền kinh tế xanh. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ cũng thúc đẩy tăng trưởng xanh bằng cách ban hành nhiều quyết định quan trọng có liên quan đến phát triển kinh tế xanh như: Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017 phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 với mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP, xanh hóa các ngành kinh tế…

Thực hiện nghị quyết của Đảng, chủ trương của Chính phủ, trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Ngành Ngân hàng luôn tích cực và nỗ lực hướng đến các mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, do vậy, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Chương trình hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh phù hợp với từng giai đoạn thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia. NHNN cũng đã ban hành thông tư hướng dẫn các tổ chức tín dụng (TCTD) quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; lồng ghép mục tiêu tăng dần tỉ trọng dư nợ tín dụng xanh trong tổng dư nợ tín dụng của hệ thống các TCTD theo Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ).

Như vậy, có thể thấy chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế xanh đã thể hiện rõ ràng, có lộ trình bài bản và sự quyết tâm thực hiện của cả hệ thống chính trị, của doanh nghiệp và cộng đồng xã hội.

3. Thực tiễn phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam


Hơn 12 năm qua, kể từ khi Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 được ban hành, với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp và người dân về tầm quan trọng của phát triển kinh tế xanh, cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng ấn tượng theo hướng xanh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2012 - 2023 luôn tăng trưởng ở mức trên 5,5%, đây được xem là kỳ tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng so với nhiều nước trên thế giới trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chịu nhiều tác động nặng nề từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu và dịch bệnh Covid-19. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng kinh tế của nước ta tiếp tục khởi sắc với mức tăng khoảng 6,42%. Đây là nỗ lực rất lớn của Chính phủ và các doanh nghiệp, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong phát triển kinh tế xanh, hướng đến phát triển bền vững. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khoảng 3,38%, theo đó, khu vực này đóng góp khoảng 5,96% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,51%, đóng góp 44,28%; khu vực dịch vụ tăng 6,64%, đóng góp 49,76%6. Như vậy, so với cùng kỳ các năm trước, cơ cấu kinh tế Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024 có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, theo đó, tăng tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản. Đây là xu thế phát triển kinh tế tất yếu phù hợp với Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh của Việt Nam. Đặc biệt, các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp trong và ngoài nước tiếp cận và áp dụng mô hình nông nghiệp xanh, phát triển công nghiệp xanh, đầu tư vào năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính đã được Việt Nam triển khai thực hiện. Hiện tại, có nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam đã áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn hướng đến tăng trưởng xanh như: Mô hình nông nghiệp hữu cơ tuần hoàn của Công ty cổ phần Nguyên Khôi Xanh ở tỉnh Phú Thọ với quy trình chăn nuôi lợn chặt chẽ, bảo đảm môi trường không bị ô nhiễm, tiến tới xây dựng nền kinh tế xanh; mô hình thu chất thải làm phân bón của Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn tại tỉnh Đồng Tháp với mô hình “sông trong ao”, cho phép một phần bùn thải, chất hữu cơ trong hồ nuôi cá được xử lý làm phân bón, trong đó nước có thể dùng để tái tưới cây sau khi đã xử lý theo phương thức thủy canh; hay mô hình sử dụng năng lượng mặt trời của Công ty cổ phần Thiên Long tại Khu công nghiệp Tân Tạo, Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo một nguồn điện lớn cung cấp cho nhà máy, góp phần bảo vệ môi trường… Bên cạnh đó, trong nông nghiệp có mô hình vườn - ao - chuồng và các biến thể như rừng - vườn - ao - chuồng, hệ thống trồng cây - nuôi cá kết hợp giúp thu hồi khí thải hoặc tận dụng thức ăn, dinh dưỡng. Các mô hình này đã góp phần giảm 12,9% lượng phát thải khí nhà kính. Tiêu hao năng lượng tính trên GDP giảm trung bình 1,8%/năm7. Đồng thời, nhận thức của người dân và doanh nghiệp về vai trò của kinh tế xanh được nâng cao.

Để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đẩy mạnh cấp tín dụng xanh cho doanh nghiệp, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những cam kết quốc tế về phát triển kinh tế xanh của Chính phủ. Trong giai đoạn 2017 - 2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Tính đến hết năm 2023, dư nợ cấp tín dụng xanh của các TCTD đạt gần 528.300 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với toàn bộ nền kinh tế8. Trong đó, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) là ngân hàng thương mại có dư nợ tín dụng xanh cao trong lĩnh vực lâm nghiệp, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, nông nghiệp xanh. Ngoài ra, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cũng là ngân hàng thương mại tiên phong trong lĩnh vực cho vay kinh tế xanh. Các ngân hàng thương mại khác của Việt Nam như: Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB)… cũng đạt tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân trên 45% hằng năm. Các dự án được các ngân hàng thương mại chú trọng đầu tư là năng lượng điện tái tạo, kinh tế tuần hoàn, chống biến đổi khí hậu.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam còn tồn tại một số khó khăn, thách thức. Đó là nhận thức của xã hội về nền kinh tế xanh vẫn còn hạn chế. Hệ thống văn bản pháp luật vẫn chưa thật sự đồng bộ. Việc huy động các nguồn lực phục vụ cho mục tiêu xanh hóa nền kinh tế của Việt Nam còn yếu, do tích lũy quốc gia so với các nước phát triển còn thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Mặt khác, nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế xanh tại Việt Nam còn ít, trình độ phát triển khoa học và công nghệ, năng suất lao động chưa cao so với các nước trên thế giới.

4. Khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam trong thời gian tới

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, cộng đồng xã hội và người dân về tầm quan trọng của phát triển kinh tế xanh. Theo đó, phát triển kinh tế xanh phải trở thành cú hích, động lực quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng và các chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ về tăng trưởng xanh gắn với phát triển bền vững. Phát huy vai trò điều hành của Chính phủ và của các bộ, ngành trong phát triển kinh tế xanh. Song song đó, các địa phương cần sớm quán triệt các kế hoạch, chương trình hành động của Chính phủ để triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương.

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, xây dựng cơ chế phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh. Cần bảo đảm tính hiệu quả trong việc thực thi các chủ trương và chính sách về phát triển kinh tế xanh, đồng thời, bảo đảm tính ổn định, lâu dài trong các chủ trương, chính sách để thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế về tài nguyên, môi trường theo hướng phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế, thực hiện giảm và miễn thuế đối với các doanh nghiệp có quy trình sản xuất, kinh doanh theo hướng xanh, tuần hoàn, bảo vệ môi trường. Đây là yếu tố quan trọng, tạo động lực để doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh theo hướng xanh, thân thiện với môi trường. Mặt khác, Việt Nam cần chú trọng thiết lập các khung chính sách hỗ trợ và khuôn khổ pháp lý phù hợp cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước phát triển kinh tế xanh.

Ba là, NHNN tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho phát triển kinh tế xanh, trong đó có tín dụng xanh để tạo cơ chế thu hút các nguồn lực tài chính quốc tế phù hợp với Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; có chính sách hỗ trợ vốn cho các TCTD tiếp cận các nguồn vốn dài hạn, ưu đãi để có thể mở rộng tín dụng xanh, tạo nền tảng thúc đẩy kinh tế xanh trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác. Đồng thời, NHNN cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát hoạt động tín dụng của các TCTD, khuyến khích các hoạt động cho vay tín dụng xanh của các ngân hàng thương mại.

Bốn là, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ chiều rộng sang chiều sâu dựa trên ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại và đổi mới sáng tạo. Chú trọng làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới, như việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về phát triển kinh tế xanh (thị trường tín dụng xanh, chuyển đổi xanh…). Đồng thời, các bộ, ngành cần tập trung rà soát, đề xuất phương án xử lý các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật còn chồng chéo, bất cập. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế xanh, chú trọng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực trong phát triển kinh tế xanh.

Năm là, tăng cường thu hút mọi nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế trong nước, cũng như thu hút đầu tư nước ngoài nhằm nhanh chóng hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng xanh của nền kinh tế. Thực hiện có hiệu quả nhiều hình thức thu hút đầu tư nước ngoài trong phát triển các ngành công nghiệp; khuyến khích và thúc đẩy phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, hướng tới thị trường tín chỉ carbon. Tập trung đầu tư nguồn lực vào phát triển và ứng dụng công nghệ cao để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xanh.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế xanh nhằm học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới về quản trị nền kinh tế theo hướng kinh tế xanh, cũng như tranh thủ nguồn lực quốc tế để thúc đẩy tăng trưởng xanh, nhất là thu hút đầu tư từ các tổ chức phi chính phủ, các nước phát triển để phát triển kinh tế theo hướng xanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những dự án có quy mô lớn, hiện đại của các tổ chức quốc tế có uy tín được đầu tư tại Việt Nam.

Như vậy, phát triển kinh tế xanh đã trở thành xu thế phát triển của các nước trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam cần thực hiện đúng cam kết với cộng đồng quốc tế về tăng trưởng xanh, hướng đến mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính về mức Net Zero vào năm 2050. Để hiện thực hóa điều đó, Việt Nam cần hoàn thiện thể chế kinh tế; đẩy nhanh quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu; tăng cường đầu tư vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế xanh… nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế xanh phát triển nhanh, làm giàu thêm nguồn vốn tự nhiên của đất nước, tạo thêm việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.


1 UNEP (2011), Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication. Geneva: United Nation Enviroment Programme.
2 R. Adarina, Yu Gazukina & K Yankovskaya (2019), Indicators of the “Green economy” as a tool for monitoring the regional economy, IOP Conference Series: Earth and Environmental Science, IOP Publishing.
3 Lê Quốc Lý (2014), Giáo trình Kinh tế môi trường (Dành cho đào tạo sau đại học), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 206.
4 Nguyễn Đình Hoàn và cộng sự (2022), “Kinh tế xanh và tăng trưởng xanh ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán, số 03 (224), trang 15.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 123 - 124.

6 Tổng cục Thống kê (2024), “Một số điểm sáng tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2024”, truy cập từ trang https://www.gso.gov.vn
7 Trần Ánh Ngọc (2023), “Kinh tế xanh ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức”, truy cập từ trang https://tapchilaodongxahoi.vn
8 Dương Văn Bôn (2024), “Xu hướng phát triển tín dụng xanh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, truy cập từ trang https://kinhtevadubao.vn

Tài liệu tham khảo:

1. Dương Văn Bôn (2024), “Xu hướng phát triển tín dụng xanh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

4. Nguyễn Đình Hoàn và cộng sự (2022), “Kinh tế xanh và tăng trưởng xanh ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán, số 03 (224).

5. Lê Quốc Lý (2014), Giáo trình kinh tế môi trường (Dành cho đào tạo sau đại học), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

6. Trần Ánh Ngọc (2023), Kinh tế xanh ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức, Tạp chí điện tử Lao động và xã hội.

7. Tổng cục Thống kê (2024), “Một số điểm sáng tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2024”.

8. UNEP (2011), “Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication”, Geneva: United Nation Enviroment Programme (UNEP).

9. R. Adarina, Yu Gazukina & K Yankovskaya (2019), “Indicators of the “Green economy” as a tool for monitoring the regional economy”, IOP Conference Series: Earth and Environmental Science, IOP Publishing.


Phạm Ngọc Hòa

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Đồng Tháp

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam. Thông qua tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước kết hợp với mô hình định lượng, nghiên cứu sẽ làm rõ tác động của rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa bất bình đẳng kinh tế giữa các địa phương và hoạt động kinh doanh bền vững của doanh nghiệp tại Việt Nam dựa trên tiêu chí ESG. Dữ liệu được thu thập từ hình ảnh vệ tinh và thông tin của hơn 1.000 doanh nghiệp trên cả nước. Kết quả giúp đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội đến hoạt động bền vững và đưa ra khuyến nghị chính sách phù hợp.
Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc