Phát triển chính sách về kinh tế xanh vùng Đông Nam Bộ

Nghiên cứu - Trao đổi
Đông Nam Bộ là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
aa

Tóm tắt: Dựa trên vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên, vùng Đông Nam Bộ có nhiều tiềm năng trong khai thác và phát triển kinh tế xanh. Bài viết tập trung phân tích những mục tiêu, định hướng và chính sách liên quan đến phát triển kinh tế xanh của vùng Đông Nam Bộ trên các khía cạnh về đầu tư xanh, tài chính xanh, thương mại xanh, công nghệ xanh, pháp lí xanh và hạ tầng xanh. Qua đó, đưa ra một số kiến nghị trong việc phát triển chính sách về kinh tế xanh vùng Đông Nam Bộ trong thời gian tới.

Từ khóa: chính sách, kinh tế xanh, vùng Đông Nam Bộ.

DEVELOPING POLICIES ON GREEN ECONOMY IN THE SOUTHEAST REGION


Abstract: Based on geographical location and natural conditions, the Southeast region has much potential in exploiting and developing a green economy. The article focuses on analyzing the goals, orientations and policies related to green economic development in the Southeast region in the aspects of green investment, green finance, green trade, green technology, green legislation and green infrastructure. Thereby, the author makes some recommendations for developing green economic policies in the Southeast region in the coming time.

Keywords: Policy, green economy, Southeast region.

1. Tiềm năng phát triển kinh tế xanh tại vùng Đông Nam Bộ


Đông Nam Bộ là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Theo báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê, tỉ trọng tăng trưởng kinh tế của vùng Đông Nam Bộ đóng góp khoảng 30% GDP, tương đương gần 45% thu ngân sách cho cả nước. Tính riêng năm 2022, chỉ số tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của vùng Đông Nam Bộ chiếm khoảng 31% cả nước; xuất khẩu đóng góp khoảng 35%, thu ngân sách khoảng 38% cả nước. GRDP bình quân đầu người của vùng gấp 1,64 lần cả nước; tỉ lệ đô thị hóa là 66,5%, gấp 1,8 lần trung bình cả nước.

Mô hình kinh tế xanh vùng Đông Nam Bộ

Vùng Đông Nam Bộ được chia thành 6 đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố. Bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh trực thuộc Trung ương: Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Theo Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 24-NQ/TW), để phát triển kinh tế xanh trong giai đoạn tới, vùng Đông Nam Bộ cần tập trung phát triển các lĩnh vực ưu tiên. Đánh giá tổng quan bao gồm 5 lĩnh vực sau: Nông nghiệp, hạ tầng đô thị, vận tải, chuyển đổi năng lượng và kinh tế biển.


Bảng 1: Các lĩnh vực tiềm năng phát triển của vùng Đông Nam Bộ


Nhìn chung, các lĩnh vực này đều có tiềm năng phát triển lớn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân vùng Đông Nam Bộ.

2. Các khía cạnh chính sách liên quan đến kinh tế xanh

2.1. Chính sách đầu tư xanh

Đầu tư xanh là đầu tư vào các dự án, hoạt động kinh doanh có tác động tích cực đến môi trường và xã hội. Tại Hội thảo do Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam phối hợp tổ chức vào tháng 10/2023, một số nút thắt trong lựa chọn dự án và cơ chế thu hút đầu tư vùng Đông Nam Bộ: (1) Thiếu khái niệm pháp lí rõ ràng về dự án đầu tư vùng; (2) Thiếu tiêu chí, cơ chế lựa chọn dự án vùng ưu tiên đầu tư; (3) Thiếu cơ chế phối hợp, tập trung vốn cho các dự án đầu tư công có tính liên kết vùng; (4) Thiếu cơ chế thu hút, hiệu quả nguồn vốn tư nhân tham gia thực hiện dự án vùng; (5) Rào cản trong tiếp cận tín dụng đầu tư cho các dự án vùng.

Mặt khác, tăng cường đầu tư vào các dự án xanh sẽ giúp thay đổi lối sống tiêu dùng xanh của cộng đồng. Các dự án xanh như nhà máy điện mặt trời, nhà máy điện gió... sẽ cung cấp năng lượng sạch, thân thiện với môi trường. Tính đến cuối năm 2023, nhiều dự án xanh tại các tỉnh, thành phố của vùng Đông Nam Bộ đang trong quá trình thi công xây dựng.


Cụm nhà máy điện mặt trời Dầu Tiếng (Tây Ninh) được đánh giá là công trình điện mặt trời mang quy mô lớn nhất Đông Nam Á với công suất 600 MWp, sản lượng điện dự kiến là 1,56 tỉ kWh/năm (Nguồn ảnh: Internet)


Trong một báo cáo thống kê các doanh nghiệp gần đây cho thấy, vùng Đông Nam Bộ có 692 doanh nghiệp nằm trong diện phải kiểm kê phát thải khí nhà kính. Theo đề án phát triển kinh tế của các địa phương vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đều đánh giá phát triển kinh tế xanh là một trong những mục tiêu cấp thiết.


Bảng 2: Mục tiêu kinh tế xanh vùng Đông Nam Bộ


2.2. Chính sách tài chính xanh

Gần đây, các sản phẩm về tài chính xanh đã được triển khai và thúc đẩy mạnh mẽ hơn tại vùng Đông Nam Bộ như chính sách về tín dụng xanh, trái phiếu xanh. Theo đó, tại mỗi tỉnh, thành phố, tài trợ tài chính đối với các dự án xanh địa phương. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, cơ chế, chính sách hiện nay cho phép các địa phương chủ động thu hút dự án từ các nhà đầu tư chiến lược với số vốn trên 30.000 tỉ đồng. Thành phố Hồ Chí Minh đang chủ động kêu gọi các dự án BOT, nhất là tuyến Metro 1 kết nối với tỉnh Bình Dương, các dự án chuyển đổi xanh nhằm bổ sung nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ.

Hay tại tỉnh Đồng Nai, tỉnh đang có nhiều khu công nghiệp hoạt động như: Dệt may Nhơn Trạch, khu công nghiệp có nhà ở đi kèm như Long Thành. Riêng khu công nghiệp Amata đang thí điểm chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái, nếu mô hình này thành công sẽ được nhân rộng ra các khu công nghiệp khác trong tỉnh. Ông David Lewis - Tổng Giám đốc Công ty Energy Capital Vietnam cho biết, sẵn sàng hỗ trợ tỉnh Đồng Nai trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng xanh nhằm thúc đẩy mục tiêu phát triển xanh, bền vững của tỉnh.

2.3. Chính sách thương mại xanh

Theo ông Võ Văn Hoan - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố Hồ Chí Minh nhận định tại Diễn đàn Thương mại xanh 2023, thương mại bền vững nên bắt đầu bằng một sự phát triển xanh trên cơ sở “sản phẩm đầu ra phải là nguyên liệu đầu vào”. Qua đó, quá trình sản xuất vận hành trở thành một quy trình kinh doanh khép kín.

Để quảng bá thương hiệu doanh nghiệp xanh, nhiều doanh nghiệp vùng Đông Nam Bộ đã tích hợp vào trong quy trình sản xuất, kinh doanh. Đơn cử như Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn - TNHH Một thành viên (SATRA) tiến hành triển khai các chính sách dịch vụ trong việc áp dụng xanh. Đối với hoạt động sản xuất, SATRA đã triển khai chương trình "Hãy nói không với túi ni lông" trên toàn hệ thống bán lẻ, đồng thời khuyến khích khách hàng sử dụng túi vải không dệt khi mua sắm. Đây là giải pháp thay thế túi ni lông bằng túi ni lông phân hủy sinh học và túi vải không dệt, góp phần vào việc giảm thiểu lượng rác thải nhựa ra môi trường. Với định hướng sử dụng bao bì, nguyên liệu thân thiện môi trường, trong quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho doanh nghiệp, SATRA đã yêu cầu các nhà sản xuất tạo ra các loại bao bì không gây ra ảnh hưởng đến môi trường. Tiêu biểu là việc thay thế khay xốp bằng các vật liệu thân thiện với môi trường như khay giấy, khay gỗ,... Bên cạnh đó, SATRA đã thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư xây dựng lớn của doanh nghiệp như đầu tư xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung, đảm bảo nước thải sau xử lí đạt tiêu chuẩn trước khi xả ra môi trường, hay triển khai chương trình phân loại rác thải tái chế tại các chi nhánh, cửa hàng trên toàn hệ thống.

Để tiết kiệm và hạn chế tối đa việc sử dụng sản phẩm nhựa, SATRA đã khuyến khích cán bộ công nhân viên và khách hàng của mình nên sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần. Trong khuôn khổ chuỗi chương trình hoạt động bảo vệ môi trường, SATRA đã tổ chức nhiều sự kiện hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới, Ngày Chủ nhật xanh, Chương trình sống xanh và sạch. Trong đó, Ngày hội tái chế với chủ đề "Sống xanh nhận nhanh quà SATRA" đã tạo sự lan tỏa không chỉ trong cán bộ công nhân viên, mà cả người dân tại những khu dân cư của các siêu thị khi đổi giấy, báo, sách, tập cũ, chai nhựa,… để nhận quà từ SATRA.

Nằm trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 90 doanh nghiệp đã được tôn vinh và trao danh hiệu “Doanh nghiệp xanh”. Nhóm tiêu chí để đánh giá xét chọn doanh nghiệp xanh bao gồm: (1) Nhóm các tiêu chí hoạt động xử lí toàn bộ chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm, kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi trường; (2) Nhóm các tiêu chí hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước như chính sách thuế, bảo hiểm xã hội; (3) Nhóm các tiêu chí công nghệ số như quy trình công nghệ sản xuất, xử lí chất thải hiện đại; áp dụng chuyển đổi số trong sản xuất và quản lí; (4) Nhóm các tiêu chí về sản phẩm xanh như các sản phẩm thân thiện môi trường, áp dụng giải pháp tiết kiệm năng lượng, sử dụng nguyên vật liệu xanh.

Du lịch là ngành luôn gắn liền với thương mại và dịch vụ. Một trong những chính sách được nhiều tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ hướng đến trong thời gian tới là phát triển du lịch xanh. Với những tiềm năng và lợi thế sẵn có, du lịch vùng Đông Nam Bộ, đặc biệt là du lịch sinh thái có thể phát triển thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của khu vực. Vùng Đông Nam Bộ có hệ thống tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú, đa dạng. Có thể phân loại các địa điểm du lịch của vùng thành ba nhóm: (1) Nhóm vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn; (2) Nhóm cảnh quan núi; (3) Nhóm cảnh quan sông, hồ.

Về nhóm vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn, vùng có bốn vườn quốc gia (Nam Cát Tiên, Côn Đảo, Bù Gia Mập, Lò Gò - Xa Mát), một khu dự trữ sinh quyển (Đồng Nai) và một khu bảo tồn thiên nhiên (Bình Phước). Các khu vực này có hệ sinh thái đa dạng, với nhiều loài động, thực vật quý, hiếm, là nơi sinh sống của các cộng đồng dân tộc thiểu số.

Về nhóm cảnh quan núi, vùng có nhiều núi cao, hùng vĩ như núi Bà Đen (Tây Ninh), núi Bà Rá (Bình Phước), núi Dinh (Bà Rịa - Vũng Tàu), núi Chứa Chan (Đồng Nai). Đây là những địa điểm lí tưởng để du khách tham quan, khám phá thiên nhiên và trải nghiệm các hoạt động dã ngoại.

Về nhóm cảnh quan sông, hồ, vùng có nhiều sông, hồ lớn như sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông, sông Đồng Nai, hồ Dầu Tiếng, hồ Trị An, hồ Thác Mơ. Đây là những nơi có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, là điểm đến lí tưởng để du khách tham quan, nghỉ dưỡng.

Nhìn chung, để phát triển du lịch sinh thái bền vững, cần có những chính sách linh hoạt trong việc tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhưng vẫn đảm bảo bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch lâu dài. Theo đó, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch sinh thái. Các khu du lịch sinh thái cần được đầu tư xây dựng theo hướng thân thiện với môi trường, đặc biệt là khâu tổ chức du lịch phải theo hướng bền vững, hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường.

2.4. Chính sách công nghệ xanh

Các công nghệ xanh như công nghệ xử lí nước thải, công nghệ tái chế... sẽ giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Theo ông Đặng Dương Minh Hoàng - Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp số Bình Phước, thí điểm trong việc phối hợp nhà khoa học các trường đại học phát triển một số ứng dụng số phục vụ phát triển nông nghiệp. Cụ thể, nhóm chuyên gia xây dựng phần mềm số hóa vườn cây giúp định danh từng cây trồng, cập nhật thông tin hoạt động chăm sóc, bón phân, tưới nước, vận chuyển... từ đó hỗ trợ truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Tính đến năm 2023, phần mềm có thể vận hành được trên 5 ngôn ngữ khác nhau, phù hợp với nhu cầu sử dụng của người dân trong và ngoài nước. Hay dự án thúc đẩy phát triển công nghệ nano-silica sử dụng tro, trấu để sản xuất, giúp tăng cường sự phát triển của cây. Công nghệ được thử nghiệm thành công trên một số loại cây trồng cho thấy, hiệu quả khả quan.

Ngoài ra, có thể kể đến ứng dụng công nghệ máy bay không người lái và trí tuệ nhân tạo trong việc phát hiện, đánh giá hướng chữa trị bệnh cho cây. Nhiều cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương đã ứng dụng trên một số diện tích trồng cây ăn trái, giúp giảm thiểu thiệt hại do sâu bệnh gây ra.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, Blockchain đã được ứng dụng để truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Theo ông Đỗ Văn Long - Tổng Giám đốc Công ty CP Vietnam Blockchain, sau triển khai công nghệ Blockchain tới các địa phương đã có hơn 10 triệu tem Blockchain được kích hoạt trong tổng hơn 800 sản phẩm truy xuất. Bên cạnh hỗ trợ người tiêu dùng nắm rõ thông tin, chủ động trong việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa nông nghiệp, ứng dụng còn giúp nâng cao niềm tin và an tâm khi sử dụng.

2.5. Chính sách pháp lí xanh

Một trong những khung chính sách về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ là Nghị quyết số 24-NQ/TW. Dựa trên nguyên tắc đồng bộ và thống nhất, chính sách phát triển vùng phải phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu quốc gia. Trong đó, bên cạnh phấn đấu đạt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 8 - 8,5%, Nghị quyết số 24-NQ/TW còn đưa ra chiến lược cụ thể trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường.

Bên cạnh khu công nghiệp công nghệ cao, khu công nghiệp sinh thái là một loại hình khu công nghiệp đang nhận được nhiều sự quan tâm. Căn cứ theo khoản 5 Điều 2 Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ, khu công nghiệp sinh thái có doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất sạch hơn và sử dụng hiệu quả tài nguyên, có sự liên kết, hợp tác trong sản xuất để thực hiện hoạt động cộng sinh công nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp sinh thái được gọi là doanh nghiệp sinh thái. Doanh nghiệp sinh thái có trách nhiệm thực hiện các giải pháp sản xuất và kinh doanh xanh.

Đồng thời, Nhà nước khuyến khích và có biện pháp hỗ trợ ưu đãi, bao gồm ưu đãi áp dụng theo địa bàn, ngành, nghề và ưu đãi áp dụng đối với dự án đầu tư vào khu công nghiệp cho các tổ chức, cá nhân đầu tư mới hoặc chuyển đổi toàn bộ hoặc một phần khu công nghiệp đã được thành lập sang hoạt động theo loại hình khu công nghiệp sinh thái.

Bảng 3: Một số chính sách pháp lí xanh tiêu biểu vùng Đông Nam Bộ




2.6. Chính sách hạ tầng xanh

Theo Bộ Giao thông vận tải, dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng giao thông vùng Đông Nam Bộ khoảng 738.500 tỉ đồng. Trong đó, giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 342.000 tỉ đồng và giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 396.500 tỉ đồng, tập trung đầu tư vào các dự án trọng điểm, liên kết vùng, tạo động lực lan tỏa. Dưới đây là chi tiết kế hoạch kết nối giao thông của vùng Đông Nam Bộ của Bộ Giao thông vận tải.

Bảng 4: Kế hoạch phát triển các dự án giao thông vùng Đông Nam Bộ



Nhóm nghiên cứu của WB vừa đưa ra đề xuất thành lập Quỹ Phát triển hạ tầng Đông Nam Bộ nhằm vực dậy hạ tầng đô thị vùng, kì vọng sẽ huy động nguồn lực đầu tư cho các dự án hạ tầng xanh, bền vững ở khu vực Đông Nam Bộ. Theo WB, hạ tầng đô thị ở Đông Nam Bộ đang đối mặt với nhiều thách thức, từ việc xuống cấp, thiếu đồng bộ của hạ tầng giao thông, xử lí nước thải cho đến tình trạng thiếu nguồn lực đầu tư cho hạ tầng xanh, bền vững. Việc thành lập Quỹ Phát triển hạ tầng Đông Nam Bộ sẽ góp phần giải quyết các thách thức và thúc đẩy phát triển bền vững ở khu vực Đông Nam Bộ.

3. Một số kiến nghị

Một là, Chính phủ cần xây dựng khung pháp lí và chính sách đầu tư xanh rõ ràng, minh bạch nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào các dự án, hoạt động kinh doanh xanh như đầu tư vào năng lượng tái tạo, đầu tư vào tiết kiệm năng lượng và hiệu quả năng lượng, đầu tư vào phát triển kinh tế tuần hoàn. Đa phần các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ đều đã xây dựng tiêu chí dựa trên hiệu quả kinh tế, hiệu quả môi trường và hiệu quả xã hội. Tuy vậy, những nhiệm vụ, giải pháp cần cụ thể hơn nữa, đơn cử như các kế hoạch hành động ở từng địa phương.

Hai là, tiếp cận tài chính xanh là một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy kinh tế xanh. Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn xanh, bao gồm các chính sách ưu đãi về lãi suất, thời hạn vay, bảo lãnh tín dụng...; khuyến khích phát triển các tổ chức tài chính xanh, cung cấp các sản phẩm tài chính xanh cho doanh nghiệp như trái phiếu xanh, tín dụng xanh.

Nhìn chung, để xây dựng và hoàn thiện các chính sách công cụ tài chính xanh vùng Đông Nam Bộ, cần xây dựng các tài liệu hướng dẫn, nâng cao năng lực về tài chính xanh thúc đẩy thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững. Ngoài ra, thiết lập mạng lưới kết nối hợp tác trong nước và quốc tế về tài chính xanh nhằm thúc đẩy áp dụng các mô hình sản xuất và tiêu dùng xanh, cũng như hỗ trợ đầu tư sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường.

Ba là, dựa trên đặc điểm địa lí và thế mạnh sản phẩm của vùng Đông Nam Bộ, chính sách thương mại cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào thương mại xanh. Bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại xanh như đàm phán các hiệp định thương mại, tham gia các tổ chức quốc tế về thương mại xanh, Chính phủ cần ban hành thống nhất những quy định, tiêu chuẩn, hướng dẫn thương mại về nhãn sinh thái gồm nhãn xanh, nhãn năng lượng, nhãn carbon, nhãn tái chế… Đối với thương mại điện tử, Chính phủ cần khuyến khích phát triển thương mại điện tử xanh thông qua các chính sách ưu đãi về thuế, phí. Đồng thời, các cá nhân và tổ chức cũng nên có sự chủ động tìm hiểu và tham gia hoạt động về thương mại điện tử xanh.

Bốn là, cập nhật và phát triển các công nghệ xanh. Trong đó, nghiên cứu, phát triển là yếu tố quan trọng để tạo ra các công nghệ xanh mới. Tiêu biểu như ứng dụng công nghệ Blockchain cho các dự án nông nghiệp, thời trang xanh. Chính vì vậy, Chính phủ cần có những chính sách tài trợ cho nghiên cứu, phát triển công nghệ xanh nhằm tạo động lực cho các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh.

Năm là, hoàn thiện khuôn khổ chính sách pháp lí xanh vùng Đông Nam Bộ nói riêng và chính sách kinh tế xanh của Việt Nam nói chung. Những quy định pháp lí xanh phải phù hợp với các cam kết quốc tế và thực tiễn phát triển của Việt Nam. Từ văn bản đến thực thi có khoảng cách khá lớn nên việc quá trình triển khai, thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường cần được tăng cường, đảm bảo tính nghiêm minh.

Sáu là, ngoài việc phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động kinh doanh xanh, các chính sách hạ tầng xanh vùng Đông Nam Bộ từ đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không còn góp phần khuyến khích sử dụng các phương tiện giao thông xanh. Về lâu dài, sẽ cải thiện và thúc đẩy các công trình xanh quốc gia, giúp tiết kiệm năng lượng và nâng cao nhận thức trong việc sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, đề xuất thiết lập Quỹ Phát triển hạ tầng Đông Nam Bộ có thể xem xét để huy động nguồn lực đầu tư cho hạ tầng xanh vùng. Quỹ có thể được thành lập dưới hình thức là quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ hoặc quỹ tín dụng nhằm tiếp cận nguồn lực từ vốn ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp và vốn xã hội cho các hoạt động đầu tư vào các dự án hạ tầng xanh của vùng Đông Nam Bộ.


1 Điểm b khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 32/NQ-HĐND ngày 08/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai.
2 Điểm c khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 97/NQ-HĐND ngày 13/12/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3 Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 19/2020/NQ-HĐND ngày 10/12/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Phước.
4 Điểm c khoản 2 Mục II Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 04/01/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Tài liệu tham khảo:

1. Kế hoạch hành động số 202/KH-UBND ngày 14/9/2022 của UBND tỉnh Đồng Nai về sản xuất và tiêu dùng bền vững trong công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2022 - 2030.
2. Kế hoạch hành động số 3961/KH-UBND ngày 04/8/2023 của UBND tỉnh Bình Dương về tăng trưởng xanh trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2023 - 2030.
3. Nghị quyết số 19/2020/NQ-HĐND ngày 10/12/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Phước về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 của tỉnh Bình Phước.
4. Nghị quyết số 97/NQ-HĐND ngày 13/12/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
5. Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 04/01/2021 của UBND tỉnh Tây Ninh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 của tỉnh Tây Ninh.
6. Nghị quyết số 32/NQ-HĐND ngày 08/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2022 của tỉnh Đồng Nai.
7. Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế.
8. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
9. Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Hoàng Nam
Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước - Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH)
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng