Nhận tài sản đảm bảo là phần vốn góp, cổ phần từ quy định pháp luật đến thực tiễn

Công nghệ & ngân hàng số
Bài viết tập trung phân tích loại hình giao dịch bảo đảm mà chủ nợ có thể nhận đối với tài sản bảo đảm là phần vốn góp, cổ phần và cách thức xử lý loại tài sản bảo đảm đặc biệt này. Đây là một vấn đề...
aa

Bài viết tập trung phân tích loại hình giao dịch bảo đảm mà chủ nợ có thể nhận đối với tài sản bảo đảm là phần vốn góp, cổ phần và cách thức xử lý loại tài sản bảo đảm đặc biệt này. Đây là một vấn đề pháp lý khá phức tạp và bài viết này chỉ nhằm mục đích phác họa các nét lớn về chủ đề này.

Cần lưu ý là chứng khoán như cổ phiếu của công ty đại chúng có thể được cầm cố theo quy định của pháp luật chuyên ngành (đặc biệt là Thông tư số 05/2015/TT-BTC ngày 15 tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán và Quy chế hoạt động lưu ký chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 199/QĐ-VSD ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tổng Giám đốc Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam). Việc xác lập và xử lý cầm cố chứng khoán khá khác biệt so với quy định liên quan đến phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần và do đó, không thuộc phạm vi nghiên cứu của bài viết này.



Có thể thấy, hành lang pháp lý về thế chấp phần vốn góp, cổ phần vẫn còn ít nhiều khoảng trống và hạn chế và loại hình giao dịch bảo đảm này còn tiềm ẩn khá nhiều rủi ro đối với các bên

1. Xác lập và công bố giao dịch bảo đảm

Giao dịch bảo đảm nào phù hợp đối với phần vốn góp, cổ phần?

Điều 182.1(e), Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 (“Luật doanh nghiệp”) quy định thành viên góp vốn công ty hợp danh có thể “định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách […] thế chấp, cầm cố”. Trong quy định này, nhà lập pháp tỏ ra khá do dự trong việc sử dụng thuật ngữ nên đã chọn giải pháp an toàn là sử dụng cả thuật ngữ cầm cố và thế chấp. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp không đề cập đến một cách rõ ràng khả năng thế chấp phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hay trong công ty cổ phần. Thực vậy, theo quy định tại Điều 50.6 của văn bản này, thành viên công ty TNHH có quyền “định đoạt phần vốn góp của mình bằng [….] cách khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”. Hơn nữa, Điều 114, Luật doanh nghiệp liệt kê một loạt quyền của cổ đông phổ thông trong đó không đề cập đến quyền sử dụng cổ phần làm tài sản bảo đảm. Điều đáng nói là điều luật này có quy định mở là cổ đông phổ thông có “các quyền khác” nhưng lại giới hạn là việc thực hiện các quyền này phải “theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty”. Do đó, nếu theo đúng câu chữ của quy định này thì cổ đông công ty cổ phần chỉ được sử dụng cổ phần để bảo đảm khoản vay nếu điều này được cho phép một cách rõ ràng trong Điều lệ của công ty.

Điều 6.5, Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 20 tháng 6 năm 2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (“Thông tư 08”) quy định có thể đăng ký tài sản bảo đảm là “phần vốn góp trong doanh nghiệp theo quy định của pháp luật doanh nghiệp”. Tuy nhiên, văn bản này lại coi cổ phiếu là tài sản bảo đảm (Điều 6.6).

Theo quy định tại Điều 120.1, Luật doanh nghiệp, “cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó”. Cổ phiếu không tự thân chứa các quyền hành động đối với công ty bởi vì các quyền phát sinh từ phần vốn góp như quyền biểu quyết, quyền nhận cổ tức và quyền được hưởng khối tài sản còn lại của công ty khi tiến hành thủ tục thanh lý cũng như mọi quyền phát sinh từ hợp đồng khác đối với công ty phụ thuộc vào việc đăng ký vào sổ cổ đông của công ty [1]].

Xét về bản chất, cổ phần mới là đối tượng thực của giao dịch bảo đảm, chứ không phải cổ phiếu. Có thể so sánh cổ phiếu với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất: trong trường hợp này thế chấp có đối tượng là quyền sử dụng đất, nhà hay tài sản khác gắn liền với đất chứ không phải là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Do công ty hợp danh không phải là mô hình công ty được sử dụng phổ biến tại Việt Nam, bài viết chỉ tập trung phân tích các biện pháp bảo đảm đối với phần vốn góp vào công ty TNHH và công ty cổ phần.

Cổ phần trong công ty cổ phần hay phần vốn góp trong công ty TNHH là quyền tài sản (tài sản vô hình) và do đó, không thể giao được về mặt vật chất cho chủ nợ có bảo đảm. Hơn nữa, chúng thể hiện quyền chủ nợ của người nắm giữ (chủ sở hữu) cổ phần hay phần vốn góp đối với công ty. Do đó, thế chấp là biện pháp bảo đảm phù hợp nhất đối với phần vốn góp và cổ phần bởi vì thế chấp không đặt ra yêu cầu chuyển giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp (Điều 317, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 (“Bộ luật dân sự”).

Hiệu lực và giá trị pháp lý với bên thứ ba

Hợp đồng thế chấp phần vốn góp hay cổ phần có hiệu lực giữa các bên kể từ thời điểm giao kết, trừ các trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác (Điều 319.1, Bộ luật dân sự). Giao dịch bảo đảm này phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký (Điều 319.2, Bộ luật dân sự) tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (Điều 6.5 và Điều 6.6, Thông tư 08).

“Người thứ ba” ở đây được hiểu là bất cứ bên nào có thể có xung đột về mặt lợi ích với bên nhận thế chấp, như người nhận chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần được thế chấp, người được thi hành án đối với tài sản của bên thế chấp, các bên nhận bảo đảm khác…

Lợi nhuận, thông báo và quyền biểu quyết

Một vấn đề khác đặt ra là bên thế chấp hay bên nhận thế chấp có quyền nhận lợi nhuận, cổ tức hay thông báo và thực hiện quyền biểu quyết trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng thế chấp phần vốn góp hay cổ phần trước khi xử lý thế chấp hay không? Do thế chấp phần vốn góp hay cổ phần không dẫn tới việc chuyển giao quyền sở hữu phần vốn góp hay cổ phần cho chủ nợ có bảo đảm (Điều 317, Bộ luật dân sự), bên thế chấp vẫn là chủ sở hữu của phần vốn góp hay cổ phần trong quá trình thế chấp. Với tư cách là thành viên góp vốn hay cổ đông được ghi trong sổ đăng ký thành viên hoặc sổ đăng ký cổ đông của công ty, bên thế chấp vẫn có quyền nhận lợi nhuận, lợi tức và các thông báo gửi cho thành viên hay cổ đông của công ty cũng như được thực hiện mọi quyền biểu quyết gắn với tư cách thành viên hay cổ đông của mình.

2. Xử lý thế chấp phần vốn góp hay cổ phần

Các phương thức xử lý

Việc xử lý thế chấp phần vốn góp hay cổ phần được thực hiện theo các phương thức mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp. Trong trường hợp không có thỏa thuận, phần vốn góp hay cổ phần sẽ được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác (Điều 303, Bộ luật dân sự).

Nếu áp dụng Điều 303, Bộ luật dân sự về các phương thức xử lý tài sản thế chấp thỏa thuận, có ba phương thức xử lý tài sản thế chấp là phần vốn góp hay cổ phần theo thỏa thuận là (i) bán đấu giá tài sản; (ii) bên nhận thế chấp tự bán tài sản; và (iii) bên nhận thế chấp nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp.

Trong thực tế, một trong những khó khăn đặt ra khi xử lý tài sản bảo đảm là phần vốn góp hay cổ phần là phải xác định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với phần vốn góp hay cổ phần đó như thế nào.

Theo quy định tại Điều 31, Luật doanh nghiệp, khi thay đổi bất cứ nội dung nào của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải đăng ký thay đổi với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày có thay đổi. Doanh nghiệp có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng nếu không đăng ký hoặc đăng ký không đúng thời hạn việc thay đổi thành viên hay cổ đông sáng lập theo quy định tại Điều 25, Nghị định số 50/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 6 năm 2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.

Khó khăn đáng kể nhất hiện nay khi nhận thế chấp phần vốn góp hay cổ phần chính là thủ tục chuyển quyền sở hữu phần vốn góp hay cổ phần được thế chấp khi xử lý thế chấp. Điều 53.2, Luật doanh nghiệp nêu rõ “thành viên chuyển nhượng vẫn có các quyền và nghĩa vụ đối với công ty tương ứng với phần vốn góp có liên quan cho đến khi thông tin về người mua […] được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên”.

Tương tự Điều 126.7, Luật doanh nghiệp quy định trong trường hợp chuyển nhượng cổ phần, “người nhận [chuyển nhượng] cổ phần trong các trường hợp quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các thông tin của họ […] được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông”.

Như vậy, về nguyên tắc, người nhận chuyển nhượng phần vốn góp hay cổ phần hay người nhận phần vốn góp hay cổ phần để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm chỉ trở thành thành viên hay cổ đông của công ty sau khi (i) thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên hay sổ đăng ký cổ đông của công ty có phần vốn góp hay cổ phần được thế chấp và (ii) công ty đã thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi thành viên công ty TNHH hay thủ tục thông báo thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập công ty cổ phần. Điều đáng tiếc là pháp luật doanh nghiệp hiện hành không có quy định nào về thủ tục đăng ký thay đổi thành viên công ty TNHH hay thủ tục thông báo thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập công ty cổ phần khi xử lý thế chấp.

Do vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, bên mua hay bên nhận thế chấp nhận chính phần vốn góp hay cổ phần thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm nên yêu cầu công ty và bên thế chấp thực hiện cả việc đăng ký thông tin của mình vào sổ đăng ký của công ty và đăng ký thay đổi thành viên công ty TNHH hay thủ tục thông báo thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập công ty cổ phần để đảm bảo chắc chắn hiệu lực cho việc chuyển giao phần vốn góp hay cổ phần khi xử lý thế chấp phần vốn góp hay cổ phần.

Cuối cùng, cần lưu ý Điều 324.2(c) Bộ luật dân sự quy định người thứ ba giữ tài sản thế chấp có nghĩa vụ “giao lại tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp […] theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”. Rất khó có thể xác định rõ việc giao tài sản bảo đảm này được thực hiện theo cách nào trong trường hợp thế chấp phần vốn góp hay cổ phần. Tuy nhiên, có thể hiểu là quy định này đặt ra trách nhiệm đối với người đại diện theo pháp luật của công ty phải phối hợp để thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua hay bên nhận thế chấp nhận chính phần vốn góp hay cổ phần thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm nêu trên.

Hạn chế chuyển nhượng

Một điểm đáng chú ý khác là Luật doanh nghiệp vẫn còn thiếu vắng các quy định về việc chấp thuận tư cách thành viên góp vốn hay cổ đông của bên nhận thế chấp hay bên thứ ba mua phần vốn góp hay cổ phần khi xử lý tài sản bảo đảm. Thực vậy, Luật doanh nghiệp chỉ quy định việc chấp thuận thành viên mới của công ty TNHH trong trường hợp chuyển nhượng, tặng cho phần vốn góp hay sử dụng phần vốn góp để trả nợ. Theo đó, về nguyên tắc, khi chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác trước hết phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện; và chỉ được chuyển nhượng với cùng điều kiện chào bán đối với các thành viên còn lại cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chào bán (khoản 1, Điều 53, Luật doanh nghiệp). Tương tự, trường hợp người được tặng cho là người khác thì chỉ trở thành thành viên của công ty khi được Hội đồng thành viên chấp thuận (khoản 5, Điều 54, Luật doanh nghiệp). Hơn nữa, trong trường hợp thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì người nhận thanh toán chỉ được trở thành thành viên của công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận, nếu không sẽ bắt buộc phải chào bán phần vốn góp đó (khoản 6, Điều 54, Luật doanh nghiệp). Còn đối với công ty cổ phần, trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông (khoản 3, Điều 119, Luật doanh nghiệp) [2]. Có thể thấy, tinh thần của Luật doanh nghiệp là hạn chế việc chuyển nhượng phần vốn góp hay cổ phần cho các bên thứ ba dẫn đến việc bên này được tham gia vào Hội đồng thành viên hay Hội đồng quản trị của công ty khi chưa có sự đồng ý của các thành viên hay cổ đông hiện hữu. Để tránh xung đột về sau, việc chấp thuận bên nhận thế chấp hay bên mua có thể diễn ra ngay trong giai đoạn xác lập hợp đồng thế chấp thông qua việc gửi dự thảo hợp đồng thế chấp đến công ty để các thành viên trong Hội đồng thành viên hay Hội đồng quản trị xem xét quyết định và trong trường hợp này khi xử lý tài sản bảo đảm không cần thiết phải xin chấp thuận bên nhận thế chấp hay bên mua như một thành viên hay cổ đông thay thế bên thế chấp trong công ty.

Hơn nữa, một số hạn chế về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam có thể tác động đáng kể đến việc xử lý thế chấp phần vốn góp hay cổ phần trong trường hợp bên mua hay bên nhận thế chấp nhận chính phần vốn góp thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm là nhà đầu tư nước ngoài [3].

Cuối cùng, điều lệ của công ty có thể có quy định cấm việc xác lập giao dịch bảo đảm đối với phần vốn góp vào công ty hay cổ phần của công ty. Điểm b, khoản 1, Điều 365, Bộ luật dân sự quy định bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự không được chuyển giao quyền yêu cầu đó cho một bên thứ ba nếu bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận về việc không được chuyển giao quyền yêu cầu. Như đã trình bày ở trên, trong một chừng mực nào đó có thể coi phần vốn góp hay cổ phần là một loại quyền đòi nợ đặc biệt và do đó, dường như quy định của điều lệ cấm xác lập giao dịch bảo đảm đối với phần vốn góp hay cổ phần có giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 365, Bộ luật dân sự này. Chính vì thế, cần nghiên cứu kỹ điều lệ của công ty trước khi xác lập hợp đồng thế chấp phần vốn góp hay cổ phần để xác định liệu có quy định cấm nào không. Trong trường hợp có quy định cấm này trong điều lệ, chủ nợ có bảo đảm có thể yêu cầu các thành viên công ty TNHH hay các cổ đông trong công ty cổ phần sửa đổi điều lệ để phần vốn góp hay cổ phần được tự do chuyển nhượng cho chủ nợ có bảo đảm và cho người mua khi xử lý thế chấp phần vốn góp hay cổ phần. Để tránh việc điều lệ công ty có thể bị sửa đổi trong tương lai theo hướng bỏ quyền tự do chuyển nhượng, bên nhận thế chấp có thể đàm phán với các thành viên hay cổ đông còn lại của công ty để có được cam kết từ phía họ là sẽ không biểu quyết thông qua nghị quyết thay đổi Điều lệ công ty trong thời gian hiệu lực của hợp đồng thế chấp [4].

Bán phần vốn góp hay cổ phần

Pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể về nghĩa vụ của bên nhận thế chấp đối với bên thế chấp trong trường hợp bán phần vốn góp hay cổ phần cho bên thứ ba. Về điểm này, có thể tham khảo kinh nghiệm của pháp luật Anh, theo đó các nghĩa vụ này bao gồm:

- Nghĩa vụ hành động có thiện chí và thực hiện các biện pháp hợp lý để có được giá tốt nhất cho phần vốn góp hay cổ phần (Bản án Cuckmere Brick Company v Mutual Finance [1971] Ch 949);

- Yêu cầu không được bán cho chính mình hoặc cho một người là bên nhận ủy thác (trustee) hay người lao động của mình khi chưa được sự cho phép của Tòa án (bản án Farrar v Farrars (1888) LR 40 Ch D 395 - thường được biết đến là quy tắc chống việc bán cho chính mình). Tuy vậy, quy tắc này không cấm việc bên nhận bảo đảm có thể bán cho một công ty có phần vốn góp hay cổ phần của bên này;

- Nếu bên nhận bảo đảm bán cho một công ty có phần vốn góp hay cổ phần của mình thì bên nhận bảo đảm và bên mua phải chứng minh được rằng giao dịch đã được xác lập một cách thiện chí và rằng bên bảo đảm đã cẩn trọng hợp lý để có được giá bán tốt nhất mà bình thường có thể nhận được tại thời điểm bán (bản án Tse Kwong Lam v Wong Chit Sen [1983] 1 WLR 1349);

- Yêu cầu giao dịch thỏa đáng (fair dealing) bởi vì nếu xung đột về lợi ích diễn ra, giao dịch bán có thể sẽ bị vô hiệu trừ khi giá bán thực sự là mức giá trên thị trường (full market value) [5].

Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản thế chấp sau khi thanh toán chi phí xử lý tài sản thế chấp lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì số tiền chênh lệch phải được trả cho bên bảo đảm (Điều 307.2, Bộ luật dân sự). Lý do nằm ở tính chất phụ trợ của biện pháp bảo đảm và việc áp dụng nguyên tắc đòi lại tài sản trong trường hợp được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật quy định tại Điều 279.1, Bộ luật dân sự: việc xử lý tài sản bảo đảm không thể đưa lại cho bên nhận bảo đảm một lợi ích lớn hơn lợi ích mà việc thực hiện một cách bình thường nghĩa vụ được bảo đảm có thể đưa lại cho bên này.

Nhận phần vốn góp hay cổ phần để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp

Một trong các phương thức xử lý tài sản thế chấp được quy định tại khoản 1, Điều 303 là “bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm”. Để có thể thực hiện được phương thức xử lý tài sản bảo đảm này, hợp đồng thế chấp phần vốn góp phải nêu rõ quyền của chủ nợ có bảo đảm được nhận phần vốn góp hay cổ phần để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp.

Không biết vô tình hay hữu ý mà ở đây người làm luật chỉ cho phép các bên thỏa thuận sử dụng phương thức này nếu nghĩa vụ được bảo đảm ở đây chính là nghĩa vụ của bên bảo đảm. Nói cách khác, phương thức xử lý bảo đảm theo thỏa thuận này không áp dụng cho trường hợp một bên thế chấp tài sản của mình để bảo đảm cho một bên khác vay vốn tại ngân hàng. Trong trường hợp này, các bên cần quy định các phương thức xử lý bảo đảm khác.

Có thể thấy, hành lang pháp lý về thế chấp phần vốn góp, cổ phần vẫn còn ít nhiều khoảng trống và hạn chế và loại hình giao dịch bảo đảm này còn tiềm ẩn khá nhiều rủi ro đối với các bên. Cần đặc biệt chú trọng việc soạn thảo hợp đồng thế chấp để khắc phục các hạn chế và khoảng trống pháp lý này để bảo vệ tốt hơn quyền của bên nhận thế chấp.

________

[1] Louise Gullifer (ed), Goode on Legal Problems of Credit and Security, Sweet & Maxwell, 4th edition, 2008, para.1-47.

[2] Khi hết thời hạn nêu trên, các cổ phần được tự do chuyển nhượng (khoản 4, Điều 119, Luật doanh nghiệp).

[3] Chẳng hạn, hạn chế trong một số lĩnh vực đặc biệt như ngân hàng hay hạn chế nêu trong Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ mà Việt Nam đưa ra khi đàm phán gia nhập WTO.

[4] Michael Rutstein, Christian Staps and Laurent Assaya, “I pledge to thee my shares: taking share security in England, France and Germany”, Corporate Rescue and Insolvency Journal, vol. 2, issue 6, December 2009.

[5] Becky Kitchener, “Enforcement of share charges: in practice”, Journal of International Banking and Financial Law, vol. 28, issue 2, February 2013.

TS. Bùi Đức Giang

Nguồn: TCNH số 1/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử và một số kiến nghị

Thương mại điện tử phát triển mạnh sau đại dịch Covid-19 nhưng kéo theo nhiều rủi ro về bảo mật thông tin và dữ liệu cá nhân, gây ra tình trạng xâm phạm, đánh cắp dữ liệu và gia tăng tội phạm mạng. Do đó, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân trở thành yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh kinh tế số. Bài viết phân tích thực trạng bảo vệ dữ liệu, chỉ ra những hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Phát triển ngân hàng số  và thanh toán không dùng tiền mặt  tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Phát triển ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024

Nghiên cứu phân tích sự bùng nổ của ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt tại Phú Yên giai đoạn 2022 - 2024, với sự tăng trưởng mạnh về số lượng khách hàng, giao dịch và chuyển dịch sang kênh điện tử. Động lực là sự phối hợp giữa chính sách, đổi mới từ ngân hàng, công nghệ và sự hưởng ứng của người dân. Nghiên cứu kết luận giai đoạn này góp phần thúc đẩy chuyển đổi số và đề xuất giải pháp duy trì tăng trưởng, khắc phục thách thức về an ninh và khoảng cách số.
Đặc trưng của chuyển đổi số  và những tác động đến hoạt động  của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Đặc trưng của chuyển đổi số và những tác động đến hoạt động của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Chuyển đổi số, nổi bật trong bối cảnh CMCN 4.0, đang thay đổi sâu sắc cách vận hành và cung cấp dịch vụ trong ngành ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng trung ương. Bài viết làm rõ khái niệm, đặc điểm của chuyển đổi số trong lĩnh vực này, phân tích tác động đến hoạt động của các NHTW trên thế giới và đề xuất gợi ý cho Việt Nam.
Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Tài chính - ngân hàng thời Deepfake: Nguy cơ và ứng phó

Với quyết tâm từ các cấp lãnh đạo, nỗ lực của ngành Ngân hàng và ý thức cảnh giác của mỗi người dân, chúng ta hoàn toàn có thể giảm thiểu mối đe dọa từ deepfake, góp phần bảo vệ an ninh tài chính quốc gia trong kỷ nguyên số hóa.
Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Những năm gần đây, token được sử dụng rộng rãi đối với các giao dịch trực tuyến trong lĩnh vực tài chính -ngân hàng, nhằm đảm bảo an toàn cho tài khoản của khách hàng. Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến xu hướng tạo dựng token điện tử trên các nền tảng có khả năng lập trình với mục tiêu cung cấp hạ tầng cơ sở (gọi là sắp đặt token) và mã hóa các token (tokenization) để hỗ trợ các bên tham gia phát hành, chuyển giao tiền tệ và những tài sản khác, bắt đầu được triển khai trên thị trường tài sản ảo và nhanh chóng được nghiên cứu, thử nghiệm rộng rãi.
Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Ngày 29/5/2025, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Thời báo Ngân hàng đã phối hợp với Vụ Thanh toán - NHNN tổ chức sự kiện “Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025” với chủ đề “Hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới”. Tham dự sự kiện có đồng chí Phạm Minh Chính - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06.
Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Bài viết phân tích sự chuyển dịch của hệ thống chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số, nhấn mạnh vai trò của hành vi khách hàng, hiệu quả chi phí và công nghệ. Mô hình hybrid được xem là giải pháp tối ưu, kết hợp giữa kênh số và chi nhánh truyền thống. Nghiên cứu đề xuất tái cấu trúc mạng lưới, nâng cao năng lực nhân sự và ứng dụng dữ liệu lớn để phục vụ đa dạng nhu cầu khách hàng.
Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Bài viết đề cập đến rủi ro an ninh mạng trong dịch vụ Mobile Banking tại Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo mật toàn diện kết hợp GNN-GCD với các công nghệ định danh như IMEI, CCCD và VNeID. Hệ thống còn tích hợp mã HLV và thuật toán AES 256-bit để bảo vệ dữ liệu, giúp nâng cao độ bảo mật và tăng niềm tin người dùng.
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc