Mức độ tổn thương và khả năng phục hồi của kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh sau đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4

Nghiên cứu - Trao đổi
Tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc chủ yếu vào thương mại - dịch vụ và công nghiệp - xây dựng. Khu vực thương mại - dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp lớn nhất vào tổng s...
aa

Tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc chủ yếu vào thương mại - dịch vụ và công nghiệp - xây dựng. Khu vực thương mại - dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) (trên 60%) và duy trì xu hướng tăng trong những năm gần đây, ngay cả giai đoạn chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 từ năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021...


1. Cấu trúc kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh trước làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4

Tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc chủ yếu vào thương mại - dịch vụ và công nghiệp - xây dựng. Khu vực thương mại - dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) (trên 60%) và duy trì xu hướng tăng trong những năm gần đây, ngay cả giai đoạn chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 từ năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021. Trong 5,46% tăng trưởng GRDP sáu tháng đầu năm 2021 có 3,66% đến từ thương mại - dịch vụ, đây cũng là lĩnh vực có sức bật cao so với các ngành khác trong các đợt dịch trước đây. Khu vực công nghiệp - xây dựng của Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ hai, đóng góp trên 24% GRDP Thành phố. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò chủ đạo cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu, chiếm tỷ trọng 69,29% tổng kim ngạch xuất khẩu - không tính xuất khẩu dầu thô; và 49,06% tổng kim ngạch nhập khẩu. Ở nửa đầu năm 2021, khu vực này đã được xem là động lực chính trong tăng trưởng xuất, nhập khẩu của Thành phố với kim ngạch xuất khẩu tăng 6,2% và nhập khẩu tăng 12,2% so cùng kỳ năm 2020. Tương ứng, đóng góp chính vào ngân sách Thành phố là từ thu nội địa (64% đến 68%), thu từ xuất nhập khẩu góp 30 - 31% và khoảng 3,2% thu từ dầu thô.

Cấu trúc trụ lực này duy trì ổn định ngay cả sau làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 3. Sang 6 tháng đầu năm 2021, tăng trưởng vẫn diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các ngành trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, đạt 5,46% - tăng gấp ba lần so với 6 tháng đầu năm 2020. Quý I/2021 và Quý II/2021, nền kinh tế Thành phố đã phục hồi ngoạn mục sau khó khăn trong năm 2020. Đúng như nhận định của nhóm nghiên cứu: “Sau tình trạng suy thoái sâu sẽ là sự phục hồi mạnh mẽ, là đặc điểm chính của thành phố năng động và còn nhiều tiềm năng phát triển như Thành phố Hồ Chí Minh”. Tổng thu ngân sách được cập nhật đến 7 tháng đầu năm 2021 rất cao, đã đạt được 66,67% nhiệm vụ thu cả năm (365.000 tỷ đồng). GRDP đạt 680.328 tỷ đồng, là mức giá trị tạo thành chưa từng có trước đó. Thế nhưng, làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4 đã nhanh chóng gây nên sự sụt giảm nghiêm trọng ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, gây ra nhiều tổn thương nặng nề.

2. Mức độ tổn thương do làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4

Những tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 xuất hiện sớm ở một số ngành từ tháng 5/2021, bắt đầu lan rộng trong tháng 6/2021. Tác động xấu nhất của dịch bệnh Covid-19 đã bộc lộ rõ vào tháng 8/2021 và tiếp tục kéo dài đến nửa đầu tháng 9/2021.

Tháng 7/2021 ghi nhận tổn thương nghiêm trọng nhất xảy ra ở ngành công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Tất cả 10 ngành sản xuất công nghiệp chế biến đều sụt giảm nghiêm trọng. So với cùng kỳ năm 2020, cả 10 ngành đều có tăng trưởng âm. Mà mảng dịch vụ tổn thương nghiêm trọng ngay khi giãn cách. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7/2021 giảm 27,72% so với tháng 6/2021; tương đương giảm 42,25% so với năm 2020. Các ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống, lữ hành là hai ngành chịu tổn thất nặng nề nhất. Trong đó, doanh thu từ dịch vụ lữ hành gần như về 0 và hoàn toàn đóng băng trong suốt hơn nửa năm qua mà chưa có tín hiệu phục hồi. Đóng góp của dịch vụ lưu trú và ăn uống vào tổng doanh thu ngành rất khiêm tốn, đặc biệt lao dốc trong tháng 6/2021 và tháng 7/2021 khi thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ (Chỉ thị 16) và Chỉ thị 16+ ở mức cao hơn về giãn cách cùng quy định phong tỏa nhiều khu vực.

Hoạt động vận tải hàng không chịu khủng hoảng nặng nề nhất vì tốc độ tăng trưởng của hoạt động vận tải hành khách và vận tải hàng hóa liên tiếp lao dốc qua từng tháng. Tính đến tháng 6/2021, tỷ lệ này đã rời khỏi mốc -90% và có khả năng tiếp tục giảm. Đường bộ là phương tiện vận tải có kết quả tương đối khả quan so với các phương tiện khác khi tốc độ tăng trưởng là 1,60% và -2,10% trong tháng 5/2021 lần lượt đối với vận tải hành khách và vận tải hàng hóa.

Xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng nặng nề. Toàn bộ các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng tiêu cực do dịch Covid-19. Sự sụt giảm nghiêm trọng xuất hiện từ tháng 6/2021 và tiếp tục nặng nề hơn trong tháng 7/2021, kéo theo nhiều lệ lụy. Thu ngân sách Nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm nhanh, chỉ đạt trung bình 200 tỷ đồng so với mức trung bình 540 tỷ đồng mỗi ngày ở thời kỳ trước. Xuất khẩu dầu thô giảm đến 58% doanh số. Xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện, là mặt hàng duy nhất có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD mỗi tháng, đã sụt giảm gần ¼ doanh số; tiềm ẩn nguy cơ đối tác xuất khẩu hủy đơn khi doanh nghiệp không đảm bảo được tiến độ giao hàng, hệ lụy có thể kéo dài đến hết năm 2021, qua năm 2022.

Hoạt động nhập khẩu giảm mạnh mức 30 - 40% ở mọi mặt hàng, bắt đầu từ tháng 6/2021 và nghiêm trọng hơn vào tháng 7/2021, ngược hoàn toàn với sự gia tăng mạnh mẽ trong tháng 5/2021 nhờ sự mở rộng của lĩnh vực sản xuất đã thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu đầu vào. Chỉ riêng có mặt hàng máy vi tính, linh kiện sản xuất sản phẩm điện tử được nhập khẩu mạnh trong tháng 7/2021, tăng 43,39% so với tháng 6 về số tương đối, tương ứng tăng gần 1 tỷ USD về số tuyệt đối. Đây là mặt hàng duy nhất có kim ngạch xuất khẩu vượt trên 1 tỷ USD mỗi tháng và chiếm xấp xỉ 35% tổng kim ngạch nhập khẩu. Hàng hóa nhập khẩu sụt giảm vì nhiều nguyên nhân, từ sản xuất bị ngưng lại, do chuỗi logistics bị gián đoạn, nhưng tập trung nhiều ở lý do khủng hoảng thiếu container làm nghẽn chuỗi cung ứng logistics quốc tế. Các cảng ở Bờ Tây - Mỹ và ở Quảng Đông - Trung Quốc đã trải qua vấn đề này kéo dài hàng tháng và đây cũng đang là mối nguy tại các cụm cảng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Việc nhập khẩu khó khăn nhưng hàng về đến cảng không được giải phóng do chuỗi logistics bị hạn chế gây nên tình trạng tồn ứ tại cảng, kéo theo hàng loạt hệ lụy. Điển hình tại cảng Cát Lát, hàng nhập tồn hàng chục nghìn container chưa được giải phóng, trong đó 10% đã tồn kéo dài trên 90 ngày. Dịch vụ vận tải đối mặt với tình trạng hàng về không có điểm hạ container, thiếu container rỗng phục vụ cho hàng xuất. Hệ lụy này như vòng xoáy sụt giảm mọi phương diện.

Tình hình xấu đi rất nhiều trong tháng 8/2021, doanh số thương mại - dịch vụ chỉ còn 35.500 tỷ đồng, chưa bằng 30% doanh thu hàng tháng trong điều kiện bình thường. Ngành công nghiệp giảm sâu 22,4% so với tháng 7/2021, nghiêm trọng nhất ở sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học, dệt, sản xuất da. Xuất nhập khẩu giảm mạnh từng ngày. Chỉ sau 2 tuần đầu tháng 8/2021, doanh số xuất khẩu đã giảm đến 24,2%, nhập khẩu giảm 11,7%, thu ngân sách từ xuất nhập khẩu giảm 3.860 tỷ đồng, chỉ còn bằng với 2/3 so với 2 tuần cuối tháng 7/2021.

Hệ lụy là việc đảm bảo nguồn thu ngân sách trở nên rất khó khăn, trong khi đó chi bất thường do các ca nhiễm Covid-19 tăng mạnh. Thu nội địa chịu tổn thương nghiêm trọng và còn kéo dài. Nguồn thu từ dầu thô đã giảm nghiêm trọng do cú sốc kép gồm giá dầu thế giới giảm mạnh và dịch bệnh Covid-19. Kỳ vọng tăng được nguồn thu từ dầu thô cũng rất hạn chế. Giá dầu đảo chiều, giảm mạnh từ tháng 7/2021 và dự đoán tiếp tục giảm cho đến hết năm 2021. Thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu dù bị ảnh hưởng nghiệm trọng nhưng dự kiến là lực kéo, tạo nguồn cho thu ngân sách năm 2021. (Hình 1, 2, 3)







3. Những tín hiệu tích cực xuất hiện ngay trong giai đoạn khó khăn nhất

Mặc dù trong khó khăn, sức khỏe của nền kinh tế vẫn có những dấu hiệu tích cực: Bốn mặt hàng xuất khẩu có tín hiệu phục hồi ngay sau đứt gãy sản xuất trong tháng 6/2021, gồm: Cao su, gạo, cà phê và hàng dệt may (Hình 4). Năm thị trường xuất khẩu chính vẫn còn hoạt động tương đối tích cực, doanh số xuất khẩu tháng 7/2021 tăng mạnh so với tháng 6/2021, gồm Trung Quốc, Mỹ, Hồng Kông, Nhật và Hàn Quốc. Xuất khẩu đến Hồng Kông tăng 65,61% so với tháng 6/2021, đến Hàn Quốc tăng 21,32%, đến Mỹ tăng 7,3%. Đây là 5 thị trường có giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng 10 tỷ USD mỗi tháng, xét riêng doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có 3 thị trường xuất khẩu quy mô nhỏ vẫn hoạt động tích cực gồm Hà Lan, Singapore, Thái Lan… Tiêu biểu, xuất khẩu sang Singapore tháng 7/2021 tăng 1,5 lần so với tháng 6/2021.


Kết quả hoạt động trong lĩnh vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong ba tháng 5/2021, 6/2021 và 7/2021 vừa qua cho phép khẳng định Việt Nam vẫn là điểm đến thu hút vốn FDI và đây là những tín hiệu rất tích cực trong bối cảnh “âm u” của làn sóng dịch bệnh Covid-19 lần thứ 4. Số lượng dự án FDI được cấp phép vẫn tăng mạnh ngay cả trong những tháng khó khăn nhất, từ 287 dự án vào tháng 5/2021, đến 262 dự án vào tháng 6/2021 và tiếp tục tăng lên 345 dự án vào tháng 7/2021 (Hình 5). Các hoạt động bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy thu hút được nhiều FDI nhất, cả về số lượng dự án lẫn số vốn đầu tư. Ngay cả trong tháng 7/2021, khi làn sóng dịch bệnh Covid-19 lần thứ 4 trở nên nghiêm trọng hơn, thì vẫn có đến 143 dự án FDI cấp phép hoạt động trong lĩnh vực này, tăng hơn so với tháng 6/2021 là 29 dự án. Tương ứng, số vốn đăng ký trong tháng 7/2021 là 58,3 triệu USD, tăng hơn so với mức 51,10 triệu USD đăng ký ở tháng 6/2021. Điểm đáng chú ý là hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ thu hút rất nhiều dự án FDI trong thời gian này, với 71 dự án được cấp phép trong tháng 6/2021 và 104 dự án trong tháng 7/2021. Số vốn tương ứng là 12,8 triệu USD cho tháng 6/2021 và 16 triệu USD cho tháng 7/2021. Hoạt động kinh doanh bất động sản hút một lượng rất lớn vốn FDI so với trước đó, hơn 1.250 triệu USD mỗi tháng, không chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 đang hoành hành. Xấp xỉ một nửa vốn FDI vào Thành phố Hồ Chí Minh trong các tháng 5/2021, 6/2021 và 7/2021 chảy vào các hoạt động kinh doanh bất động sản này.


4. Khả năng hồi phục và các hỗ trợ cần thiết cho sự hồi phục

Mặc dù kết quả đạt được của 8 tháng đầu năm 2021 rất tích cực, nhưng dịch bệnh Covid-19 đã làm gián đoạn quá trình hồi phục của Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng thời gian giãn cách ở nhiều cấp độ, tính đến 15/9/2021 lên đến 108 ngày, chiếm đến 30% quỹ thời gian của 1 năm. Tổn thất tăng cấp số nhân theo số đợt giãn cách và cấp độ giãn cách. Tương ứng, số đợt giãn cách càng dài nền kinh tế càng lún sâu vào khó khăn, khủng hoảng việc làm nghiêm trọng thì càng làm cho khả năng hồi phục chậm lại. Chính vì vậy, việc đảm bảo cho sự phục hồi trở nên rất thách thức.

Mặc dù nền kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh chịu tổn thương nặng nề ở làn sóng dịch bệnh Covid-19 lần thứ 4, nhưng với nội lực tốt nên có khả năng tự hồi phục ngay sau khi mở cửa dần trở lại ở mức cơ bản đối với tất cả các ngành kinh tế. Tuy nhiên, mức độ phục hồi tự thân sẽ rất hạn chế về mức độ và chậm theo thời gian. Để đảm bảo được sự phục hồi nhanh sau thời gian chịu lực nén do dịch Covid-19, nền kinh tế rất cần sự trợ lực để tạo đà phục hồi, trực tiếp, gián tiếp và tương thích với từng giai đoạn.

Giai đoạn đầu, để hỗ trợ ổn định và tái thiết, cần ưu tiên đảm bảo an sinh và sinh kế, đây là giai đoạn quan trọng tạo bước đệm cho giai đoạn tiếp theo. Ở giai đoạn này, các gói hỗ trợ phù hợp bao gồm: Hỗ trợ an sinh cho người dân duy trì mức sống tối thiểu; hỗ trợ chi phí giáo dục cho học sinh, sinh viên; hỗ trợ cho tiểu thương và hộ kinh doanh để duy trì địa điểm kinh doanh cũng như chuyển đổi phương thức, tập quán kinh doanh từ offline sang online, trên các sàn giao dịch thương mại điện tử.

Giai đoạn phục hồi, nền kinh tế cần được hỗ trợ 3 yếu tố: Kích cầu tiêu dùng, lao động và vốn. Hỗ trợ thông qua giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng cho người tiêu dùng và giãn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có tác dụng kích cầu mạnh, nên sử dụng làm bàn đạp đẩy nền kinh tế phục hồi. Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi việc làm và hỗ trợ doanh nghiệp tái tạo việc làm cho người lao động là rất cần thiết và phù hợp. Các gói này hướng đến mục tiêu giúp doanh nghiệp hạn chế sa thải lao động, tuyển dụng trở lại số lao động đã nghỉ việc hoặc giúp chuyển đổi vị trí việc làm cho lao động, giúp thu hút lao động có tay nghề.

Cuối cùng, nhằm tạo sự đột phá, đưa nền kinh tế tăng trưởng lên một bậc và duy trì ổn định ở mặt bằng tăng trưởng mới, cần tập trung vào hỗ trợ yếu tố công nghệ. Gói kích thích số giúp mọi thành viên trong nền kinh tế bắt kịp tốc độ phát triển theo cấp số nhân của công nghệ, đang diễn ra mạnh mẽ và cấp thiết trên toàn thế giới. Đại dịch Covid-19 cho thấy vai trò to lớn của công nghệ, không chỉ trong duy trì kinh tế mà còn cả trong mọi mặt của đời sống. Về lâu dài, đầu tư công sẽ là cốt lõi để duy trì sự phát triển bền vững.

Thành phố Hồ Chí Minh có thể phục hồi và phát triển mạnh mẽ như đã từng hay không, ngoài việc phụ thuộc vào việc áp dụng các gói hỗ trợ này, còn tính đến khả năng kiểm soát được dịch bệnh Covid-19 ở mức ổn định. Bên cạnh đó, điều quan trọng là quy mô hỗ trợ phải đủ lớn và thời gian áp dụng đủ dài để phát huy được các tác dụng tích cực.

(Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ Chương trình Nghiên cứu “Kiến tạo động lực phục hồi kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn Covid-19 lần thứ 4” do Trường Đại học Kinh tế - Luật và Viện Nghiên cứu Phát triển công nghệ ngân hàng ĐHQG-HCM thực hiện).

Tài liệu tham khảo:

1. Clemens, M., & Roeger, W. (2021). Temporary VAT Reduction during the Lockdown.

2. Funke, M., & Terasa, R. (2020). Will Germany’s Temporary VAT Tax Rates Cut as Part of the Covid-19 Fiscal Stimulus Package Boost Consumption and Growth?

3. Guo, Y. M., & Shi, Y. R. (2021). Impact of the VAT reduction policy on local fiscal pressure in China in light of the COVID-19 pandemic: A measurement based on a computable general equilibrium model. Economic Analysis and Policy, 69, 253-264.

4. International Monetary Fund (IMF). (2021). Policy responses to Covid-19. Retrieved from https://www.imf.org/en/Topics/imf-and-covid19/Policy-Responses-to-Covid-19#T

5. OECD. (2020). Tax and fiscal policy in response to the Coronavirus crisis: Strengthening confidence and resilience.

6. Richard Blundell, Peter Levell, & Helen Miller. (2020). A temporary VAT cut could help stimulate the economy, but only if timed correctly Retrieved from https://ifs.org.uk/publications/14903

7. Chính phủ (ngày 01/7/2021): Nghị quyết 68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

8. Hoàng Công Gia Khánh và cộng sự. (tháng 5/2020). Lựa chọn chính sách phục hồi kinh tế giai đoạn Covid-19, Trường Đại học Kinh tế - Luật.

9. Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 25/6/2021): Nghị quyết 09/2021/NQ-HĐND về một số chế độ, chính sách đặc thù phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19, hỗ trợ người dân bị tác động bởi dịch Covid-19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

10. Atashbar., T. (2020). Financing the Covid-19 deficit when you are short of money: Beware of copy-cat policymaking. VoxEU.org, 13 April.

11. Fornaro, L and M Wolf (2020). Coronavirus and Macroeconomic Policy. VoxEU.org, 10 March.

12. HM Government (2021). Covid-19 response - Spring 2021, https://assets.publishing.

13.service.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/file/963491/Covid-19_Response_-_Spring_2021.pdf (truy cập ngày 25/8/2021).

14. International Monetary Fund (IMF). (July 2021). Fiscal Monitor Database of Country Fiscal Measures in Response to the Covid-19 Pandemic. https://www.imf.org/en/Topics/imf-and-covid19/Fiscal-Policies-Database-in-Response-to-COVID-19 (truy cập ngày 25/8/2021).


TS. Phạm Thị Thanh Xuân
PGS., TS. Hoàng Công Gia Khánh
ThS. Huỳnh Thị Minh Lý


Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng