Hệ thống tiền tệ trong tương lai

Hoạt động ngân hàng
Trung tâm của hệ thống tiền tệ là ngân hàng trung ương (NHTW), với vai trò phát hành tiền và duy trì những chức năng cốt lõi. Tuy nhiên, NHTW không hoạt động đơn độc mà có sự phân chia lao động với các ngân hàng thương mại và đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán (Payment Service Providers - PSPs) - triển khai hàng loạt quy trình thanh toán cơ bản và cung cấp dịch vụ trực tiếp cho khách hàng. Sự phân công vai trò này đã tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng với sự tham gia đầy nhiệt huyết và sáng tạo của khu vực tư nhân vào việc cung cấp dịch vụ thanh toán.
aa

Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) cho biết1, thế giới ghi nhận trên 2 tỷ lượt giao dịch điện tử được thực hiện mỗi ngày, chủ yếu là để thanh toán hàng hóa - dịch vụ, gửi tiền, cho vay và tham gia nhiều giao dịch tài chính khác. Khi tham gia giao dịch điện tử, người sử dụng lệ thuộc vào hệ thống tiền tệ - tập hợp các định chế và trung gian tài chính hỗ trợ nghiệp vụ trao đổi tiền tệ.


Trung tâm của hệ thống tiền tệ là ngân hàng trung ương (NHTW), với vai trò phát hành tiền và duy trì những chức năng cốt lõi. Tuy nhiên, NHTW không hoạt động đơn độc mà có sự phân chia lao động với các ngân hàng thương mại và đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán (Payment Service Providers - PSPs) - triển khai hàng loạt quy trình thanh toán cơ bản và cung cấp dịch vụ trực tiếp cho khách hàng. Sự phân công vai trò này đã tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng với sự tham gia đầy nhiệt huyết và sáng tạo của khu vực tư nhân vào việc cung cấp dịch vụ thanh toán. Thực tế cho thấy, đổi mới trong khu vực tư nhân đã mang lại lợi ích cho xã hội nhờ được xây dựng dựa trên nền tảng vững chắc của NHTW.

Với trung tâm là NHTW, hệ thống tiền tệ của thế giới đã đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, đổi mới điện tử đang mở rộng ranh giới về khả năng của công nghệ, đặt ra những đòi hỏi mới đối với hệ thống tiền tệ.

Những sáng kiến đổi mới lớn như trong thế giới tiền ảo, đã kéo theo khuynh hướng cấp tiến. Trong khi đó, thế giới tiền ảo được xây dựng dựa trên tiền đề phân cấp, không lệ thuộc vào tiền NHTW và các trung gian tin cậy. Tài chính phi tập trung (DeFi) tìm cách mô phỏng (sao chép) dịch vụ tài chính thông thường vào thế giới tiền ảo. Những dịch vụ này được hỗ trợ bởi đổi mới như khả năng lập trình và tương tác trên nền tảng chuỗi khối không cần cấp phép (chuỗi khối mở), cho phép tiến hành các giao dịch 24/7 trên phạm vi toàn cầu.

Tuy nhiên, những sự kiện gần đây bộc lộ sự khác biệt khá lớn giữa tầm nhìn và thực tế tiền ảo. Sự kiện TerraUSD stablecoin và coin Luna song sinh sụp đổ cho thấy, những yếu kém của hệ thống chỉ duy trì bằng cách bán coin cho hoạt động đầu cơ. Ngoài ra, một vấn đề trở nên rõ ràng là, tiền ảo và DeFi có những hạn chế rất lớn về mặt cơ cấu - nó cản trở hệ thống này trong việc đạt được mức độ hiệu quả, tính ổn định hay vẹn toàn cần thiết đối với một hệ thống tiền tệ thích hợp. Cụ thể là, thế giới tiền ảo thiếu “mỏ neo” danh nghĩa, mặc dù nó cố gắng nhập khẩu thông qua stablecoins, nhưng không hiệu quả. Nếu không đảm bảo an ninh mạng, việc áp dụng có xu hướng phân đoạn và không thể tiến triển được, nguyên nhân là do tình trạng tắc nghẽn và mức phí quá cao. Thay vào đó, hoạt động của hệ thống song song này được duy trì nhờ làn sóng đầu cơ nắm giữ coin. Cuối cùng, nhiều vấn đề đáng lo ngại về vai trò của các trung gian không được điều chỉnh trong hệ thống này. Do rất khó thay đổi, những khiếm khuyết cơ cấu này dường như không thể đáp ứng quy định pháp lý, chưa nói đến những điều chỉnh mang tính kỹ thuật. Nguyên nhân là do nó phản ánh những hạn chế cố hữu của một hệ thống phân cấp được thiết lập dựa trên các chuỗi khối mở.

Trở lại với hiệu ứng mạng lưới, tiền điện tử của NHTW (CBDCs) và hệ thống thanh toán nhanh (FPS) được đánh giá là phục vụ tốt lợi ích cộng đồng nhờ có nhiều thuận lợi và chi phí thấp, trong khi vẫn duy trì được tính vẹn toàn của hệ thống. Công nghệ sổ cái phân tán (Distributed Ledger Technology - DLT) cũng có thể đóng vai trò tích cực, như khi các NHTW cùng phối hợp trong việc sắp xếp multi-CBDC. Hành lang thanh toán mới này tương xứng đầy đủ với khả năng lập trình, tương tác và mã hóa để hỗ trợ các hoạt động thanh toán an toàn, hiệu quả với chi phí thấp, cả ở trong nước và qua biên giới. Theo hướng này, hệ thống tiền tệ trong tương lai sẽ thích ứng, cho phép khu vực tư nhân phát huy sáng kiến và đổi mới, trong khi tránh được nguy cơ thoái trào tiền ảo. Những sáng kiến này có thể sẽ mở ra chương mới về hệ thống tiền tệ toàn cầu.

Yêu cầu đối với hệ thống tiền tệ

Về khái niệm, hệ thống tiền tệ là tập hợp các định chế và cách thức tổ chức để hỗ trợ trao đổi tiền tệ. Để đảm bảo an toàn và ổn định hệ thống, tiền phải thực hiện được ba chức năng cơ bản: Là đơn vị kế toán; phương tiện trao đổi; và tích trữ giá trị.

Hệ thống tiền tệ phải hoạt động hiệu quả, tạo điều kiện thực hiện các giao dịch thanh toán một cách nhanh chóng và chi phí thấp. Cần mở rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ thanh toán cơ bản với chi phí hợp lý, nhất là các tài khoản giao dịch, góp phần lan tỏa lợi ích của các hoạt động kinh tế và thúc đẩy phổ cập tài chính. Ngoài ra, hệ thống tiền tệ phải bảo vệ quyền riêng tư và cho phép người dùng kiểm soát các dữ liệu tài chính của họ. Hệ thống tiền tệ cũng cần bảo vệ tính vẹn toàn hệ thống, bằng cách chống lại những hoạt động phi pháp như rửa tiền, gian lận và tài trợ khủng bố. Ngoài ra, hệ thống tiền tệ cần tiến triển theo những thay đổi mang tính cơ cấu trong nền kinh tế và hoạt động xã hội. Nói ngắn gọn, hệ thống tiền tệ phải có khả năng thích ứng, đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai; phải hòa hợp với những thay đổi về công nghệ và đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và cá nhân, đồng thời thúc đẩy cạnh tranh và đổi mới. Để phục vụ một thế giới ngày càng hội nhập và kết nối, hệ thống tiền tệ phải là hệ thống mở, linh hoạt, có khả năng tương tác cả ở trong nước và qua biên giới.

Hệ thống tiền tệ ngày nay đang hướng tới những mục tiêu trên, nhưng vẫn còn một số việc cần làm. Những thay đổi về nhu cầu của người dùng và sự chuyển dịch đồng thời về công nghệ đã chỉ ra những lĩnh vực cần cải thiện. Hiện nay, dịch vụ thanh toán đôi khi còn cồng kềnh và chi phí cao, một phần là do thiếu cạnh tranh. Thanh toán qua biên giới quá đắt đỏ, mập mờ và chậm chạp, thường đòi hỏi có sự tham gia của một số ngân hàng để dàn xếp một giao dịch, sử dụng những sổ cái được thiết lập dựa trên công nghệ khác nhau. Ngoài ra, một tỷ trọng lớn số người trưởng thành chưa tiếp cận được các công cụ thanh toán điện tử, kể cả tại các nước phát triển. Trong khi đó, nền kinh tế số tiến triển không ngừng, và đòi hỏi hệ thống tiền tệ cho phép mọi người thực hiện các giao dịch tài chính trong nước và quốc tế một cách an toàn, lành mạnh và hiệu quả.

Bài học rút ra từ tiền ảo

Về tổng thể, khu vực tiền ảo mở ra tia hy vọng về khả năng công nghệ đầy hứa hẹn, nhưng không thể hoàn tất được các mục tiêu rất cao của hệ thống tiền tệ số hóa. Nó bị thiệt hại từ những thiếu sót cố hữu về tính ổn định, hiệu quả, trách nhiệm giải trình và nhất quán (vẹn toàn) - những hạn chế này chỉ được khắc phục phần nào thông qua việc hoàn thiện các quy định quản lý và điều chỉnh. Về cơ bản, tiền ảo và stablecoins dẫn đến một hệ thống tiền tệ phân đoạn và mong manh. Trầm trọng hơn, những khiếm khuyết này bắt nguồn từ các động cơ kinh tế, chứ không bắt nguồn từ yêu cầu kỹ thuật bắt buộc. Những nhược điểm này vẫn tồn tại, thậm chí khi các quy định điều chỉnh và giám sát xử lý những vấn đề về bất ổn tài chính và rủi ro thiệt hại tiềm tàng về tiền ảo.

Nhiệm vụ không chỉ dừng lại ở chỗ thúc đẩy các chức năng bổ ích như khả năng lập trình, tương tác và mã hóa, mà xây dựng và củng cố nó trên những nền tảng an toàn hơn, qua đó có thể tận dụng vòng tròn tích cực của các hiệu ứng mạng lưới. Các NHTW có thể cung cấp những nền tảng cơ bản này và đang hoạt động tích cực để định hình hệ thống tiền tệ trong tương lai. Để phục vụ lợi ích cộng đồng, các NHTW đang nắm bắt những cấu thành tốt nhất của công nghệ mới và tăng cường các nỗ lực để điều chỉnh thế giới tiền ảo và khắc phục những hạn chế trước mắt của nó.

Tầm nhìn của hệ thống tiền tệ tương lai

Trong tương lai, hệ thống tiền tệ có thể kết hợp các năng lực công nghệ mới mà tiền NHTW là hạt nhân. Bắt nguồn từ niềm tin vào tiền tệ, có thể thu được lợi ích của công nghệ số tiên tiến thông qua khả năng tương tác và hiệu ứng mạng lưới, cho phép các hệ thống thanh toán phục vụ nền kinh tế thực. Vì thế, hệ thống này có thể thích ứng với những nhu cầu mới phát sinh - trong khi đảm bảo tính riêng biệt của đồng tiền trong các hoạt động hiện đại và sáng tạo.

NHTW có bốn vai trò quan trọng: (i) Phát hành tiền NHTW (M0) - đơn vị kế toán trong nền kinh tế; (ii) Cung cấp phương tiện thanh toán cuối cùng bằng cách sử dụng bảng cân đối kế toán; (iii) Đảm bảo đủ lượng thanh khoản cần thiết để hệ thống thanh toán vận hành thông suốt; (iv) Bảo vệ tính vẹn toàn của hệ thống thanh toán thông qua các công cụ quản lý, điều hành, giám sát hệ thống ngân hàng.

Hệ thống tiền tệ trong tương lai sẽ được hình thành dựa vào những vai trò trên đây của NHTW nhằm phân phối quy mô đầy đủ về năng lực của tiền NHTW và các loại hình dịch vụ mới. Những ứng dụng mới của tư nhân sẽ được vận hành dựa trên M0 (chứ không phải stablecoins) - như CBDCs bán buôn, bán lẻ và thông qua FPS bán lẻ được lựa chọn trong bảng cân đối kế toán của NHTW. Vì thế, những sáng kiến mới của NHTW có thể hỗ trợ hàng loạt hoạt động mới.

Các cấu thành của hệ thống tiền tệ tương lai

Hệ thống tiền tệ trong tương lai sẽ được hình thành dựa trên việc phân chia vai trò giữa NHTW và các thực thể tư nhân (cung cấp dịch vụ trực tiếp cho khách hàng). Đứng đầu trong việc phân công lao động truyền thống này là những tiêu chuẩn mới như các giao diện lập trình ứng dụng (Application Programming Interfaces - APIs) - đóng vai trò thúc đẩy khả năng tương tác dịch vụ và hiệu ứng mạng lưới liên quan. Tiếp theo là năng lực của công nghệ tiên tiến, bao gồm khả năng lập trình, tương tác và mã hóa - đây là những yếu tố liên quan với thế giới tiền ảo.

Tầm nhìn này bao gồm các cấu thành bán buôn và bán lẻ, tạo điều kiện hình thành những đặc tính mới.

Ở cấp bán buôn, CBDCs có thể cung cấp năng lực mới và cho phép thực hiện giao dịch giữa các định chế tài chính - đây là những giao dịch vượt quá phương tiện dự trữ truyền thống của NHTW. Dựa trên công nghệ DLT, các giao dịch bán buôn CBDCs được tiến hành tự động theo lập trình đề ra. Nó cho phép phối hợp và xử lý vô số chức năng khác nhau, tạo thuận lợi cho việc dàn xếp các giao dịch. Những năng lực mới này không chỉ cho phép mở rộng các loại hình giao dịch, mà còn tạo điều kiện tiến hành các giao dịch giữa hàng loạt trung gian tài chính. CBDCs bán buôn cũng hoạt động phối hợp qua biên giới, thông qua việc sắp xếp các CBDC đa dạng, bao gồm nhiều NHTW và đồng tiền khác nhau.

Trong chức năng mới của CBDCs bán buôn, phải kể đến một bộ ứng dụng mới - được hình thành từ việc mã hóa bí mật dữ liệu tiền gửi (M1) và những dạng thức khác của đồng tiền trong mạng lưới DLT. Vai trò của các trung gian trong việc dàn xếp các giao dịch là một trong những thuận lợi cơ bản trong lịch sử đồng tiền, tìm ra cội nguồn về vai trò của ngân hàng ký thác tại châu Âu trong lịch sử NHTW. Tiền gửi ngân hàng được sử dụng làm phương tiện thanh toán giữa bên gửi tiền và bên nhận tiền. Việc mã hóa tiền gửi sử dụng nguyên lý này và diễn giải nghiệp vụ DLT bằng cách mã hóa tiền gửi trên nền tảng DLT và sắp xếp tiền gửi này theo phương pháp phân cấp; có thể hỗ trợ những phương thức trao đổi mới, bao gồm chứng khoán và tài sản thực, cho phép mở rộng các loại hình dịch vụ tài chính mới ngoài phạm vi thanh toán.

Ở cấp bán lẻ, nhờ cải tiến năng lực, các trung gian tài chính đã cải thiện khả năng tương tác giữa các nền tảng dịch vụ khách hàng. Trọng tâm của khả năng tương tác này là APIs, cho phép người dùng một nền tảng dịch vụ nào đó dễ dàng giao tiếp và truyền lệnh sang nền tảng dịch vụ kết nối khác.

Cụ thể là, FPS bán lẻ tạo ra đặc điểm cốt lõi khác của hệ thống tiền tệ trong tương lai. FPS bán lẻ là hệ thống mà việc truyền tải tin nhắn thanh toán và nguồn tài chính có sẵn trong hệ thống này có thể đáp ứng nhu cầu thanh toán tại mọi thời điểm trong ngày, phần lớn do NHTW vận hành. CBDCs bán lẻ là một chủng loại CBDC, mà các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận trực tiếp. Cả CBDCs và FPS đều cho phép thực hiện thanh toán tức thì giữa các khách hàng cuối cùng, thông qua hàng loạt giao diện PSP tư nhân. Vì thế, nó được thiết lập trong hệ thống NHTW hai cấp và PSP tư nhân. CBDCs và FPS chia sẻ nhiều đặc tính cốt lõi tiếp theo, và vì thế được cho là sẽ nằm trong bảng biến thiên. Cả hai được hỗ trợ bởi cấu trúc dữ liệu với nhận dạng điện tử và APIs, cho phép trao đổi dữ liệu một cách an toàn, và người dùng có thể kiểm soát các dữ liệu tài chính. Bằng cách cung cấp nền tảng mở, CBDCs khuyến khích cạnh tranh và nâng cao năng lực giữa PSPs trong khu vực tư nhân, góp phần giảm chi phí dịch vụ thanh toán và tăng cường phổ cập tài chính số cho những khách hàng chưa tiếp cận được với thanh toán điện tử.

Ẩn dụ về hệ thống tiền tệ tương lai

Biểu tượng của hệ thống tiền tệ tương lai là một cây mà thân của nó là NHTW, tượng trưng cho sự hỗ trợ vững chắc của NHTW và nguyên lý hình thành hệ thống tiền tệ này.

Hệ thống tiền tệ dựa trên tiền NHTW hỗ trợ việc đa dạng hóa các chức năng và hệ sinh thái của những người tham gia; trong hệ sinh thái này, PSPs tư nhân thể hiện khả năng sáng tạo riêng có trong dịch vụ khách hàng. Trong đó, lợi ích cơ bản là vòng tròn hiệu ứng mạng lưới sẽ được hình thành từ cấu trúc dữ liệu này, bao gồm nhận dạng điện tử và APIs, cho phép tương tác trong nước và qua biên giới.

Với phép ẩn dụ này, hệ thống tiền tệ toàn cầu được ví như một khu rừng, mà tán rừng sẽ tạo thuận lợi cho các hoạt động tiền tệ qua biên giới. Dưới tán rừng này, kết cấu hạ tầng như các nền tảng multi-CBDC là những cấu thành mới trong hệ thống.

Đổi mới sẽ tiến triển không ngừng, và cây không thể duy trì hệ sinh thái sôi động nếu thân cây không to khỏe, đây là điều kiện tiên quyết để đổi mới tư nhân và phục vụ lợi ích chung. Công việc đang diễn ra tại các NHTW là chỉ ra cách thức mà kết cấu hạ tầng công có thể cải tiến hệ thống thanh toán, tận dụng những lợi thế của đồng tiền số. Trong hoạt động ngân hàng mở, các nỗ lực tiếp tục cải cách CBDCs (cả bán buôn và bán lẻ), FPS và những cải cách khác cho thấy cách thức mà các NHTW có thể hỗ trợ nâng cao khả năng tương tác và quản trị dữ liệu. Trong việc đáp ứng lợi ích chung, NHTW không thực hiện đơn lẻ, mà phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan và khu vực tư nhân.

CBDCs bán buôn và đồng tiền mã hóa

CBDC là công cụ thanh toán điện tử, đặc trưng cho đơn vị kế toán quốc gia, và thể hiện nghĩa vụ trực tiếp của NHTW. Gần đây, các mối quan tâm tập trung vào CBDCs bán lẻ, mà các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận. Tuy nhiên, CBDCs bán buôn cũng đưa ra những chức năng mới về thanh toán và giới thiệu tới nhiều trung gian tài chính hơn so với các ngân hàng thương mại, có thể tạo ra những cơ hội rất lớn để triển khai những sáng kiến mới của khu vực tư nhân trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. CBDCs bán buôn có thể cho phép các trung gian tài chính tiếp cận những năng lực tài chính mới mà không cần đến tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại gửi tại NHTW. Đây là thuận lợi đặc biệt đối với các mạng lưới DLT, mà người tham gia mạng lưới phân cấp có thể tiếp cận sổ cái chia sẻ.

Một lợi ích của CBDCs bán buôn là, có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều trung gian hơn so với các ngân hàng thương mại trong nước. Việc cho phép PSPs phi ngân hàng giao dịch CBDC có thể nâng cao tính cạnh tranh và sôi động hơn.

CBDCs bán lẻ và FPS

CBDCs bán lẻ và FPS bán lẻ có nhiều điểm tương đồng: CBDCs bán lẻ chuẩn bị sẵn lượng tiền điện tử NHTW cho các cá nhân và doanh nghiệp, trong đó các ngân hàng và PSPs phi ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán bán lẻ cho khách hàng. Điểm khác biệt cơ bản so với FPS là, CBDCs là công cụ mà NHTW có trách nhiệm cung cấp. Vì thế, CBDCs bán lẻ đôi khi được coi là “tiền mặt điện tử” - hình thức tiền tệ khác mà NHTW phát hành cho công chúng. Nhiều FPS bán lẻ do NHTW vận hành và công cụ dự kiến để trao đổi là trái quyền của các định chế tư nhân (ví dụ, tiền gửi ngân hàng hay tiền điện tử). Tuy nhiên, cả CBDCs bán lẻ và FPS bán lẻ hình thành theo cấu trúc dữ liệu chung với APIs, qua đó đảm bảo trao đổi dữ liệu an toàn và có khả năng tương tác giữa các ngân hàng và PSPs phi ngân hàng khác nhau. Cả hai đều có đặc điểm là nhanh chóng và tiện lợi, do việc chuyển tiền phát sinh trong thời gian thực và gần như liên tục 24/7.

Khác với tiền ảo, CBDCs bán lẻ và FPS bán lẻ cho phép tạo ra vòng tròn hiệu ứng mạng lưới tích cực với nhiều người sử dụng, dịch vụ tốt hơn và chi phí thấp. Với nhiệm vụ rõ ràng, các NHTW có thể thiết kế các hệ thống nhằm đáp ứng mục tiêu đề ra từ cơ sở. Một hệ thống thanh toán dựa trên khả năng tương tác dịch vụ do PSPs tư nhân cung cấp theo cơ chế cạnh tranh có thể là thách thức đối với khu vực ngân hàng tập trung và giảm chi phí thanh toán cho người sử dụng cuối cùng. FPS bán lẻ cũng có những tiến bộ ấn tượng trong việc giảm chi phí và hỗ trợ phổ cập tài chính cho những cá nhân không sử dụng các dịch vụ tài chính - ngân hàng.

CBDCs bán lẻ có thể đóng vai trò tích cực như FPS bán lẻ, khi thể hiện năng lực công nghệ bổ sung. Thí dụ, dự án Hamilton (do Fed Boston và Viện Công nghệ số Massachusetts phối hợp triển khai) đã cho thấy tính khả thi về công nghệ của cấu trúc CBDC với khả năng tiến hành 1,7 triệu giao dịch trong một giây - vượt xa các mạng lưới thẻ chủ chốt hay blockchains.

Cũng như FPS bán lẻ, CBDCs bán lẻ có thể được thiết kế để hỗ trợ phổ cập tài chính. Nhiều NHTW đang khám phá những đặc điểm của CBDC bán lẻ có khả năng xử lý những rào cản đối với việc phổ cập tài chính, như thông qua các giao diện mới và thanh toán ngoại tuyến.

Cả CBDCs bán lẻ và FPS bán lẻ có thể cho phép người dùng kiểm soát dữ liệu cá nhân. Trong nền kinh tế số, mỗi giao dịch đều để lại dấu vết, làm dấy lên những lo ngại về quyền riêng tư, lạm dụng dữ liệu và an toàn cá nhân. Hơn nữa, các dữ liệu có giá trị kinh tế rất lớn, hiện đang tập trung chủ yếu tại các định chế tài chính và Bigtechs; nhiều Bigtech đã lạm dụng để kiếm tiền từ nguồn dữ liệu này.

Cấu trúc dữ liệu FPSs và CBDCs bán lẻ có thể cho phép người dùng mở rộng quyền kiểm soát dữ liệu, trong khi vẫn bảo vệ quyền riêng tư và trung thực. Trên thực tế, NHTW không có lợi ích thương mại về dữ liệu cá nhân, và vì thế có thể thiết kế các hệ thống theo lợi ích chung. Các hệ thống quản trị dữ liệu có thể đảm bảo sự nhất trí của người dùng, hạn chế sử dụng và lưu giữ các dữ liệu. Tương tự với hoạt động ngân hàng mở, những cấu trúc dữ liệu này cũng có thể cho phép người dùng truy cập dữ liệu theo cách thức có lợi cho người dùng trong việc sử dụng các loại hình dịch vụ tài chính. Quan trọng là, một hệ thống dựa trên nhận dạng và thông tin nhận dạng chỉ được nắm giữ bởi PSP chứ không phải NHTW. Việc sử dụng nhận dạng cũng cho phép các trung gian tài chính theo dõi người vay để đánh giá mức tín nhiệm, góp phần đảm bảo hiệu quả phân bổ nguồn vốn.

Trong quy trình này, các NHTW cũng có thể tận dụng công nghệ mật mã hiện đại, nó đưa ra các giải pháp bảo vệ quyền riêng tư của người dùng và an toàn giao dịch. Tuy nhiên, hệ thống này cần dựa trên niềm tin của người dùng, xác thực nhận dạng, nghĩa là giao dịch theo tên thật. Một vài NHTW cũng coi “tiền mặt điện tử” dưới hình thức CBDC bán lẻ là giải pháp tiềm năng để bảo vệ thông tin của người tham gia giao dịch.

Cuối cùng, CBDCs và FPS bán lẻ tạo ra cơ hội để nâng cao trách nhiệm giải trình, và chắc chắn có liên quan đến thế giới tiền ảo. Sự thật là, việc thiết kế kết cấu hạ tầng công hiện đại không phải là nhiệm vụ riêng của NHTW, mà cần thông qua đối thoại về vai trò của NHTW trong thanh toán bán lẻ. Một hệ thống xây dựng dựa trên hạ tầng công cũng cần đảm bảo PSPs phải tuân thủ các quy định điều chỉnh và khung khổ giám sát. Trong hệ sinh thái mới này, sẽ có nhiều mô hình mới về kinh doanh của khu vực tư nhân, vốn không phù hợp với các khung khổ điều chỉnh hiện hành, đòi hỏi phải điều chỉnh để tạo điều kiện cho các loại hình hoạt động mới.

Tăng cường kết nối qua biên giới

CBDCs bán buôn và bán lẻ cũng như FPS bán lẻ có thể hỗ trợ các chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng kết nối qua biên giới, điều này đòi hỏi hệ thống tiền tệ trong tương lai phải đưa ra các kênh thanh toán có thể hỗ trợ các mục tiêu hội nhập kinh tế và lợi ích chung.

Nguyên tắc xây dựng các nền tảng multi-CBDC cho thấy, tiềm năng ứng dụng theo hướng phân cấp. Thứ nhất, khi có nhiều đồng tiền tham gia hệ thống thanh toán, nhiều NHTW phải có nhiệm vụ quản trị các nền tảng thanh toán. Một phương pháp xử lý vấn đề quản trị giữa nhiều bên là chấp nhận phân cấp thông qua nền tảng DLT. Thứ hai, do việc phân cấp cần được hoàn tất bằng cách sử dụng tên thực, hơn là các chìa khóa tư nhân như trong tiền ảo, nên việc bảo vệ quyền riêng tư là cấu thành thiết kế quan trọng. Để đạt được hai mục tiêu này (tôn trọng quyền riêng tư trong khi sử dụng tên thật), có thể hoàn tất bằng cách sử dụng kỹ thuật mã hóa chủ chốt chung.

Đối với các nền tảng multi-CBDC, có nhiều mô hình khác nhau, từ phối hợp giản đơn theo các chuẩn mực đề ra, đến chia sẻ đầy đủ trên nền tảng multi-CBDC chung. Trên một nền tảng multi-CBDC chung, các khoản chuyển giao được ghi chép trên một sổ cái đơn lẻ, giúp các bên tham gia giảm thiểu lãng phí cân đối giao dịch. Vì thế, quy trình thanh toán được đơn giản hóa, tránh được sự cần thiết phải điều hòa bảng cân đối kế toán giữa các tài khoản như trong các giao dịch tại ngân hàng hối đoái truyền thống.

Tương tự, việc kết nối các hạ tầng FPS bán lẻ chung qua biên giới cũng có thể được tiến hành. Dự án gần đây tại BIS Innovation Hub cho thấy tiềm năng kết nối FPS tại những quốc gia khác nhau, và các khoản thanh toán được dàn xếp sau vài giây hơn là sau nhiều ngày, góp phần giảm chi phí và minh bạch mức phí và tỷ giá trước khi bên gửi tiền cam kết tiến hành thanh toán. Để thu được lợi ích này, đòi hỏi phải phối hợp về các thể thức tin nhắn và trong một vài lĩnh vực chính sách chủ chốt, nhưng hoàn toàn khả thi về mặt kỹ thuật.

Tóm lại, các NHTW đang phối hợp trong việc đề xuất các mục tiêu chính sách trong nước và hỗ trợ hệ thống tiền tệ toàn cầu với những lợi ích cụ thể cho nền kinh tế và người dùng cuối cùng. Trong đó, các giải pháp sử dụng sẽ kéo theo hàng loạt công nghệ mới, một số được dẫn dắt bởi hệ thống tiền ảo, nhưng cần củng cố các khung khổ về thể chế hiện hành.

1 Tại báo cáo kinh tế hàng năm được công bố ngày 26/6/2022.

Nguồn: BIS tháng 6/2022

Vũ Xuân Thanh

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng