Giao dịch bảo đảm bằng quyền tài sản theo Bộ luật dân sự 2015

Nghiên cứu - Trao đổi
Ngày nay, các tài sản vô hình (quyền tài sản) có xu hướng chiếm một tỷ trọng ngày càng quan trọng trong tổng tài sản của một doanh nghiệp. Việc sử dụng tài sản vô hình để bảo đảm nghĩa vụ có rất nhiề...
aa

Ngày nay, các tài sản vô hình (quyền tài sản) có xu hướng chiếm một tỷ trọng ngày càng quan trọng trong tổng tài sản của một doanh nghiệp. Việc sử dụng tài sản vô hình để bảo đảm nghĩa vụ có rất nhiều ưu điểm so với tài sản hữu hình bởi vì giúp tránh được nguy cơ tài sản bị mất, bị phá hủy hay giảm giá trị.

Hơn nữa, tài sản vô hình có thể được lưu trữ và chuyển giao bằng các phương tiện điện tử mà không chịu hạn chế về mặt kích thước hay không cần phải chuyển giao về mặt vật chất. Chỉ bằng một cái nhấn chuột máy tính, tài sản vô hình có thể vượt qua biên giới một nước. Chính vì thế, đây là một loại tài sản khá lý tưởng để bảo đảm khoản vay[1]. Tuy vậy, ở Việt Nam, việc cho vay theo tài sản vô hình chưa thực sự phổ biến. Ngoài tâm lý “chuộng” tài sản hữu hình quy định pháp luật hiện hành vừa thiếu vừa ít tính khả thi đang là rào cản lớn cho việc xác lập và xử lý các giao dịch bảo đảm bằng tài sản vô hình.

1. Khái niệm quyền tài sản và giao dịch bảo đảm với quyền tài sản

Khác với pháp luật của nhiều nước, tài sản vô hình ở Việt Nam được pháp luật ghi nhận thông qua khái niệm “quyền tài sản”. Quyền tài sản là một loại tài sản đã được quy định trong các bộ luật dân sự của Việt Nam [2].

Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định: “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Như vậy, quyền tài sản là một trong bốn loại tài sản theo bộ luật này.

Quyền tài sản là một loại tài sản khá đặc biệt. Điều 115 của BLDS định nghĩa: “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Như vậy, quyền tài sản được hiểu là các (i) quyền, (ii) trị giá được bằng tiền. Nếu một quyền không thể trị giá được thành tiền thì không thể được coi là quyền tài sản. Danh sách các quyền tài sản nêu tại điều luật này là một danh sách mở. Xét ở khía cạnh tích cực thì nó không hạn chế các quyền có thể được xem là quyền tài sản với điều kiện chúng thỏa mãn hai tiêu chí nêu trên. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định được một quyền nhất định có được xem là quyền tài sản hay không nhất là trong bối cảnh ranh giới giữa các quyền đối với tài sản và các quyền được xem là tài sản khá mong manh và chưa thực rõ ràng trong pháp luật thực định. Về mặt này, đáng tiếc là phần quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong BLDS không nêu rõ các loại quyền tài sản có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm. Điều này đang gây không ít khó khăn cho các bên khi xác lập các giao dịch bảo đảm trong thực tế.

Trên phương diện phân loại tài sản, nếu áp dụng định nghĩa động sản quy định tại khoản 2 Điều 107 của BLDS, một quyền tài sản sẽ mặc nhiên được coi là động sản trừ khi có một văn bản pháp luật quy định quyền tài sản này là bất động sản[3].

Dưới góc độ học thuật, cách sử dụng thuật ngữ “quyền tài sản” của BLDS chưa thực sự phù hợp và dễ gây nhầm lẫn. Thực vậy, trong pháp luật về sở hữu trí tuệ, thuật ngữ “quyền tài sản” mang một ý nghĩa hoàn toàn khác là một trong hai yếu tố cấu thành quyền tác giả4. Hơn nữa, BLDS cũng có một khái niệm tương tự là “quyền đối với tài sản” (Điều 158 và các điều tiếp theo) với một nội hàm hoàn toàn khác so với nội hàm là tài sản vô hình. Về bản chất của các quyền tài sản theo BLDS chính là các tài sản vô hình. Điều đáng tiếc là nhà lập pháp chưa công nhận khái niệm “tài sản vô hình” trong BLDS.

Bên cạnh quyền sử dụng đất, các quyền tài sản phổ biến được sử dụng để bảo đảm các khoản tín dụng trong thực tế hiện nay bao gồm quyền đòi nợ, một số quyền khác phát sinh từ hợp đồng, số dư tài khoản ngân hàng (tài khoản tiền gửi tiết kiệm của cá nhân, tài khoản tiền gửi của tổ chức và tài khoản thanh toán), phần vốn góp, cổ phần, chứng khoán và quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ hầu như vắng bóng trong danh mục tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

Ngoài quy định tại Điều 115 BLDS còn dành Điều 450 để đề cập về việc mua bán quyền tài sản, trong đó có quy định (i) quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản và (ii) “thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với quyền tài sản là thời điểm bên mua nhận được giấy tờ về quyền sở hữu đối với quyền tài sản đó hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển quyền sở hữu, nếu pháp luật có quy định”. Cần hiểu “giấy tờ về quyền sở hữu” theo nghĩa rộng, bao gồm mọi giấy tờ, chứng từ liên quan đến quyền tài sản.

Khoản 7 Điều 6 của Thông tư số 08/2018/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 20 tháng 6 năm 2018 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (Thông tư 08) quy định: “các quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 BLDS, trừ quyền sử dụng đất, gồm:

a) Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng; quyền đòi nợ; quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên; quyền được bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng;

b) Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng thuê đóng tàu biển; quyền bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng mua bán tàu bay, tàu biển; quyền thụ hưởng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm đối với tàu bay, tàu biển;

c) Các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh nhà ở, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua nhà ở (bao gồm cả nhà ở xã hội) giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở; các quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, quyền được bồi thường thiệt hại, quyền thụ hưởng bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua công trình xây dựng giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng công trình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản;

d) Quyền tài sản khác theo quy định của pháp luật”.

Các quyền tài sản trên đây là các quyền tài sản có thể được theo yêu cầu đăng ký tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Tuy danh sách các quyền tài sản này chi tiết hơn danh sách nêu tại Điều 115 của BLDS, song cũng vẫn là một danh sách mở. Có thể thấy, ngoài quyền sử dụng đất, các quyền tài sản được ghi nhận rõ ràng trong danh sách này vẫn chỉ là quyền đòi nợ và quyền phát sinh từ hợp đồng.

Liên quan đến biện pháp bảo đảm bằng quyền tài sản, điều dễ nhận thấy là do quyền tài sản không thể chuyển giao về mặt vật chất (do không thể chiếm hữu được chúng) nên không thể trở thành đối tượng của cầm cố mà chỉ có thể được thế chấp5. Cầm cố đặt ra yêu cầu giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố (Điều 309 BLDS) trong khi đó, bên thế chấp không giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp (khoản 1 Điều 317 BLDS).

Khoản 2 Điều 319 BLDS 2015 quy định: “thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”. Thời điểm đăng ký sẽ là cơ sở để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm bằng quyền tài sản (Điều 308 BLDS). Như nêu ở trên, việc thế chấp quyền tài sản ngoài quyền sử dụng đất sẽ được đăng ký tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp.

2. Đặc điểm pháp lý của các quyền tài sản là đối tượng của biện pháp thế chấp

Có thể rút các đặc điểm pháp lý cơ bản của quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp như sau:

Thứ nhất, quyền tài sản thế chấp phải thuộc sở hữu của bên thế chấp. Để sử dụng quyền tài sản làm tài sản thế chấp, bên thế chấp phải là chủ sở hữu của quyền tài sản đó, bởi chỉ có chủ sở hữu mới có quyền dùng tài sản của mình thế chấp (khoản 1 Điều 295 và khoản 1 Điều 317 BLDS) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc của người khác.

Thứ hai, quyền tài sản thế chấp luôn tồn tại dưới dạng vô hình. Khác với tài sản tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình mà con người có thể nhận biết được qua các giác quan, các quyền tài sản luôn tồn tại dưới dạng vô hình, con người không thể nhận biết được thông qua các giác quan mà chỉ biết đến sự tồn tại của chúng thông qua các thông tin liên quan đến tài sản (các thông tin này có thể được đăng ký hoặc không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền).

Thứ ba, quyền tài sản là đối tượng của biện pháp thế chấp phải có thể chuyển giao được cho chủ thể khác. Xuất phát từ bản chất của biện pháp thế chấp nhằm đảm bảo thực hiện cho nghĩa vụ của bên thế chấp hoặc của một bên thứ ba đối với bên nhận thế chấp; khi có căn cứ xử lý thế chấp, BLDS cho phép bên nhận thế chấp được xử lý tài sản thế chấp thông qua hai phương thức chính là bán tài sản thế chấp để thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm hoặc nhận chính tài sản thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 303 BLDS). Để có thể áp dụng các phương thức xử lý này thì quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp phải có hai đặc trưng sau:

Một là, quyền tài sản được thế chấp không phải là quyền tài sản mà luật cấm hoặc hạn chế chuyển dịch quyền sở hữu, ví dụ: hạn chế chuyển nhượng cổ phần nêu trong Luật doanh nghiệp.

Hai là, quyền tài sản thế chấp không phải là những quyền tài sản có gắn với yếu tố nhân thân. Các quyền tài sản gắn với yếu tố nhân thân như: quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm… không thể chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự, do đó không thể được sử dụng làm tài sản thế chấp.

Thứ tư, quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp cần được xác định cụ thể trong hợp đồng thế chấp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 295 của BLDS, “tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được”. Việc xác định chính xác tài sản thế chấp có vai trò rất quan trọng trong quá trình thế chấp nói chung, đặc biệt là khi xử lý tài sản thế chấp. Trong những hợp đồng thế chấp có đối tượng là tài sản hữu hình, tính xác định được của tài sản thế chấp thể hiện ở chỗ các bên có thể mô tả chính xác trong hợp đồng tài sản thế chấp là động sản hay bất động sản, người đang thực tế chiếm hữu, quản lý tài sản, xác định giá trị của tài sản đó tại thời điểm xác lập hợp đồng hoặc phương thức xác định giá của tài sản khi cần xử lý tài sản thế chấp… Còn trong những hợp đồng thế chấp quyền tài sản, các bên phải xác định chính xác chủ thể quyền tài sản là ai, chủ thể có nghĩa vụ đối với quyền tài sản đó hay không (nếu đó là quyền yêu cầu trả thanh toán) để đảm bảo tính toàn vẹn của tài sản; những giấy tờ, văn bằng bảo hộ đã được đăng ký (nếu đó là quyền sở hữu trí tuệ); giấy chứng nhận quyền sử dụng hợp pháp (nếu đối tượng hợp đồng là quyền sử dụng đất); các giấy tờ pháp lý hợp pháp liên quan đến tài sản (trường hợp thế chấp phần vốn góp).

Thứ năm, quyền của bên nhận thế chấp xác lập trên quyền tài sản thế chấp không bị chấm dứt hoặc vô hiệu bởi các giao dịch được thiết lập sau đó liên quan đến quyền tài sản được thế chấp. Pháp luật phải ghi nhận một cách rõ ràng quyền của bên nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp kể từ khi giao dịch bảo đảm được xác lập hợp pháp. Các quyền này đối kháng lại tất cả các quyền của các chủ thể khác xác lập lên tài sản bảo đảm sau đó. Việc thừa nhận nguyên tắc này sẽ làm cơ sở để xây dựng các quy định của pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản nói chung hay thế chấp quyền tài sản nói riêng. Bởi vì trong thời hạn thế chấp, xuất phát từ yếu tố chủ quan (người thế chấp cố tình tẩu tán tài sản khi không có khả năng thanh toán nghĩa vụ đến hạn) hoặc khách quan (tài sản bảo đảm phải được xử lý để thanh toán các khoản nợ đến hạn khi doanh nghiệp là bên thế chấp phá sản…) mà có nhiều giao dịch dân sự được xác lập trên tài sản thế chấp, dẫn đến việc xung đột lợi ích giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi. Pháp luật với vai trò là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội phải có cơ chế rõ ràng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể, đặc biệt là của bên thế chấp.

Từ các phân tích ở trên có thể thấy, quyền tài sản là một loại tài sản khá đặc thù và việc sử dụng loại tài sản này làm tài sản bảo đảm không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chỉ có điều hiện các quy định của BLDS về thế chấp tài sản dường như chỉ hướng đến các tài sản hữu hình mà chưa thực sự phù hợp với các quyền tài sản. Cần xây dựng một hệ thống các quy định riêng cho chế định pháp lý này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác lập, quản lý và xử lý thế chấp loại tài sản đặc biệt này.

[1] Louise Gullifer (ed), “Goode on Legal Problems of Credit and Security”, Sweet & Maxwell, 5th edn, 2013, para.3-01.

[2] Quyền tài sản đã được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự 2005.

[3] Về điểm này và rộng hơn về các biện pháp bảo đảm bằng động sản, xem thêm Bùi Đức Giang, “Pháp luật về bảo đảm khoản vay bằng động sản”, Tạp chí Ngân hàng, số 22, tháng 11/2018, trang 27-31.

4 Điều 18 của Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 được bổ sung, sửa đổi năm 2009 (Luật sở hữu trí tuệ): “quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản”.

5 Về biện pháp thế chấp tài sản, xem thêm Bùi Đức Giang, “Xác lập hợp đồng thế chấp tài sản theo Bộ luật dân sự”, Tạp chí Ngân hàng, số 4, tháng 2/2019, trang 13 - 15.

TS. Bùi Đức Giang
ThS. Nguyễn Hoàng Long


Nguồn: TCNH số 11/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Vận dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào trong hoạt động của ngân hàng trung ương

Chính sách tiền tệ đòi hỏi sự linh hoạt và sự kết hợp của nhiều biện pháp khác nhau, tương tự như nghệ thuật chiến tranh được mô tả trong chuyên luận nổi tiếng của Tôn Tử. Các ngân hàng trung ương (NHTW) có thể học được điều gì đó từ một chiến lược gia người Trung Quốc sống cách đây hơn 2.500 năm. Bài viết giới thiệu sáu nguyên tắc chiến lược được vận dụng tư tưởng của Tôn Tử dành cho các NHTW, được đề xuất bởi Giáo sư Kristin Forbes - Trường Quản lý Sloan thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), nhằm qua đó, giúp họ quản lý hiệu quả các khủng hoảng và duy trì sự ổn định kinh tế.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc