Giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và số hóa ngân hàng

Công nghệ & ngân hàng số
Thời gian qua, với mục tiêu lấy khách hàng là trung tâm, ngành Ngân hàng đã không ngừng hoàn thiện pháp lý và hạ tầng công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), thúc đẩy hoạt động ngân hàng số và đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán.
aa

Thời gian qua, với mục tiêu lấy khách hàng là trung tâm, ngành Ngân hàng đã không ngừng hoàn thiện pháp lý và hạ tầng công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), thúc đẩy hoạt động ngân hàng số và đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán. TTKDTM tiếp tục được tăng trưởng, nhiều dịch vụ ngân hàng đã triển khai trên kênh số, đưa lại nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả, ngành Ngân hàng cũng gặp nhiều thách thức, trong đó có vấn đề an ninh, bảo mật. Do đó, cần sự phối hợp đồng bộ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và các bộ, ngành trong việc hoàn thiện chính sách, tăng cường an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng, ngăn chặn và xử lý tội phạm công nghệ cao.

Hành lang pháp lý và hạ tầng công nghệ tạo điều kiện cho thanh toán số, ngân hàng số

Khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách cho hoạt động TTKDTM, hoạt động ngân hàng số tiếp tục được rà soát, bổ sung, hoàn thiện, tạo sự đồng bộ và điều kiện thuận lợi cho phát triển TTKDTM, thúc đẩy hoạt động ngân hàng số, ứng dụng công nghệ mới và đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán. NHNN đã nghiên cứu ban hành, trình ban hành và triển khai nhiều chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy TTKDTM và hoạt động chuyển đổi số ngành Ngân hàng như: Trình Quốc hội thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) (sửa đổi) số 32/2024/QH15 ngày 18/01/2024, trong đó có nhiều quy định về đẩy mạnh TTKDTM và hoạt động ngân hàng số; Ban hành Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán Việt Nam đến năm 2030 và tiếp tục triển khai mở tài khoản thanh toán của cá nhân, phát hành thẻ bằng phương thức điện tử (eKYC); Quy định cho vay bằng eKYC; Quy định về bảo lãnh điện tử; trình Chính phủ bộ hồ sơ dự thảo Nghị định mới về TTKDTM (thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ), Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng; Báo cáo Chính phủ về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với dịch vụ Mobile - Money; tập trung nghiên cứu, xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật Các TCTD, hướng dẫn về TTKDTM, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán, thẻ ngân hàng...



Ảnh minh họa (
Nguồn: Internet)

Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục tổ chức triển khai tích cực các đề án, chương trình, kế hoạch, chính sách nhằm thúc đẩy TTKDTM và hoạt động ngân hàng số, như: Kế hoạch triển khai Đề án phát triển TTKDTM giai đoạn 2021 - 2025; Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06); Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNN về việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06 giữa Bộ Công an và NHNN...; đồng thời, thực hiện tốt công tác giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng và giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (TGTT) đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán.

Thực trạng về TTKDTM và số hóa ngành Ngân hàng

Thời gian qua, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn, phát huy hiệu quả, đáp ứng tốt nhu cầu thanh toán liên ngân hàng trong toàn quốc, giữ vai trò là hệ thống thanh toán xương sống của quốc gia, góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán và phát triển TTKDTM.

Cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ TTKDTM tiếp tục được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Công tác đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống thanh thẻ, thanh toán điện tử tiếp tục được coi trọng và tăng cường. Số lượng các máy chấp nhận thẻ (POS) tiếp tục tăng; đến cuối tháng 01/2024, thị trường có 554.580 POS tăng 32,68% so với cùng kỳ năm 2023.

Các sản phẩm, dịch vụ thanh toán tiếp tục phát triển mạnh mẽ, gia tăng thêm nhiều tiện ích, nhất là các sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới, hiện đại ứng dụng công nghệ thông tin. Thẻ ngân hàng tiếp tục phát triển, số lượng thẻ phát hành, số lượng và giá trị giao dịch thẻ tăng nhanh. Các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tích hợp thêm nhiều tính năng vào thẻ ngân hàng để sử dụng thanh toán, từ hàng hóa, dịch vụ bán lẻ; đồng thời, chất lượng dịch vụ thẻ cũng như độ an toàn trong thanh toán thẻ được các ngân hàng chú trọng và nâng lên.

Theo số liệu của NHNN, tính đến cuối năm 2023, số lượng tài khoản thanh toán của cá nhân là hơn 182,88 triệu tài khoản, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2022; có 147 triệu thẻ đang lưu hành, tăng 1,27% so với năm 2022​.

Các chỉ số TTKDTM có mức tăng trưởng khá. Trong tháng 01/2024 so với cùng kỳ năm 2023, giao dịch TTKDTM tăng 63,3% về số lượng và 41,45% về giá trị; qua kênh Internet tăng 57,85% về số lượng và 32,43% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 68,54% về số lượng và 41,12% về giá trị; qua phương thức QR Code tăng 892,95% về số lượng và 1.062,01% về giá trị; qua POS tăng 16,87% về số lượng và 13,65% về giá trị; qua ATM giảm 15,14% về số lượng và giảm 18,76% về giá trị. Số liệu trên cho thấy xu hướng dịch chuyển từ thanh toán bằng tiền mặt sang TTKDTM.

Đến cuối năm 2023, kết quả triển khai thí điểm dịch vụ Mobile - Money do 03 doanh nghiệp thực hiện thí điểm cung ứng ra thị trường đã đạt được một số kết quả tích cực, góp phần vào phát triển TTKDTM, thúc đẩy chuyển đổi số. Cụ thể: Tổng số tài khoản Mobile - Money được đăng ký và sử dụng là hơn 7,2 triệu tài khoản, trong đó số lượng khách hàng đăng ký và sử dụng dịch vụ ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo là hơn 5,2 triệu khách hàng (chiếm khoảng 71% tổng số khách hàng đăng ký và sử dụng dịch vụ); có 11,88 nghìn điểm kinh doanh được thiết lập, với gần 250,85 nghìn đơn vị chấp nhận thanh toán; tổng số lượng giao dịch qua tài khoản Mobile - Money của khách hàng từ khi triển khai thí điểm lũy kế đến cuối năm 2023 (bao gồm giao dịch nạp/rút/chuyển tiền/thanh toán) là hơn 70,3 triệu giao dịch với tổng giá trị giao dịch gần 3.093 tỉ đồng. Nhìn chung, qua kết quả thực tế triển khai của 03 doanh nghiệp thực hiện thí điểm cho thấy, việc tiếp cận khách hàng tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo của Việt Nam đã đạt được mục tiêu đặt ra. Ngày 18/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 192/NQ-CP gia hạn thời gian thực hiện thí điểm dịch vụ Mobile - Money đến hết ngày 31/12/2024.

Thanh toán điện tử trong khu vực chính phủ, dịch vụ hành chính công đạt được kết quả khả quan; công tác thu ngân sách nhà nước, dịch vụ giáo dục, y tế, điện, nước, chi trả lương hưu, bảo hiểm y tế, trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH), trợ cấp thất nghiệp bằng phương thức TTKDTM được chú trọng, tăng cường và đạt kết quả tích cực. NHNN đã chỉ đạo các NHTM, các tổ chức TGTT tích cực đầu tư ứng dụng công nghệ, nghiên cứu, có giải pháp kết nối với Cổng dịch vụ công Quốc gia (DVCQG) để thực hiện thanh toán trực tuyến cho các dịch vụ đã được tích hợp trên Cổng DVCQG, áp dụng chính sách miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán đối với các giao dịch thanh toán trên Cổng DVCQG.

Đến cuối năm 2023, khoảng 64% số người hưởng nhận các chế độ BHXH, trợ cấp thất nghiệp qua tài khoản cá nhân tại khu vực đô thị; 63 Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh trong cả nước đã kết nối với hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng; 100% các dịch vụ công trực tuyến của hải quan được thanh toán trên Cổng DVCQG; 54/63 tỉnh, thành phố đã chi trả an sinh xã hội không dùng tiền mặt với kinh phí trả trong năm 2023 là gần 1.093 tỉ đồng; 98% người lao động nhận trợ cấp thất nghiệp thông qua TTKDTM; 100% các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn đô thị triển khai thanh toán học phí không dùng tiền mặt; hầu hết các trường mầm non, phổ thông đã sẵn sàng TTKDTM.

Với xu hướng ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số vào hoạt động ngân hàng, NHNN đã khuyến khích các TCTD triển khai chuyển đổi số, kết nối, hợp tác với các ngành, lĩnh vực khác nhau để hình thành và mở rộng hệ sinh thái số cung ứng sản phẩm dịch vụ lấy khách hàng làm trung tâm, cung cấp trải nghiệm giao dịch liền mạch, cá nhân hóa. Các TCTD, tổ chức TGTT đã ứng dụng các công nghệ tiên tiến để tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động và trải nghiệm giao dịch khách hàng; đồng thời, đánh giá, phân loại khách hàng, quyết định giải ngân và tích hợp với nhiều hệ sinh thái đối tác khác nhau trong các lĩnh vực.

Nhiều nghiệp vụ cơ bản đã được số hóa hoàn toàn 100% (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, mở thẻ ngân hàng, ví điện tử, chuyển tiền...), nhiều ngân hàng Việt Nam có tỉ lệ trên 90% giao dịch thực hiện trên kênh số. Đến cuối năm 2023, có khoảng 40 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mở tài khoản thanh toán bằng phương thức điện tử (eKYC) với hơn 35 triệu tài khoản thanh toán mở bằng eKYC đang hoạt động.

Mặc dù TTKDTM đạt những kết quả tích cực nhưng vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn do thói quen, tâm lý sử dụng tiền mặt của người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; tâm lý e ngại khi tiếp cận với công nghệ thanh toán mới của một bộ phận người dân.

Hiện nay, xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ cao với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ tội phạm lợi dụng dịch vụ ngân hàng cho mục đích bất hợp pháp, rửa tiền, trốn thuế, gian lận, lừa đảo. Điều này đặt ra thách thức lớn cho các ngân hàng trong việc đầu tư cho công nghệ bảo mật đòi hỏi chi phí, nguồn lực không hề nhỏ. Chưa kể, một bộ phận người dân còn thói quen sử dụng tiền mặt, ngại tiếp cận công nghệ, chưa có đủ thông tin và kỹ năng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số, trong đó có các dịch vụ thanh toán số, dẫn đến bị lừa, bị lộ, lọt thông tin do cung cấp hoặc click vào các link giả mạo của các đối tượng lừa đảo.

Việc đảm bảo an ninh, an toàn và bảo mật dữ liệu khách hàng ngày càng khó khăn do tình trạng lộ, lọt thông tin và dữ liệu khách hàng, rao bán thông tin cá nhân gia tăng; sự thiếu đồng bộ của các quy định pháp lý hiện hành liên quan về giao dịch điện tử, chữ ký, chứng từ điện tử, việc định danh và xác thực khách hàng điện tử, việc chia sẻ dữ liệu và bảo mật thông tin khách hàng, quy trình nghiệp vụ với thực tiễn ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng.

Bên cạnh đó, việc đầu tư hạ tầng phục vụ thanh toán dịch vụ công tốn kém chi phí, do đó cũng cần có cơ chế tài chính phù hợp về lâu dài để tạo động lực cho các ngân hàng, tổ chức TGTT tích cực trong việc tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán điện tử đối với dịch vụ công; bên cạnh vấn đề huy động, bố trí nguồn lực phục vụ thanh toán số, chuyển đổi số…

Việc phối hợp thu ngân sách nhà nước đối với các khoản thu từ đất và lệ phí trước bạ còn một số vấn đề phát sinh liên quan đến quá trình trao đổi dữ liệu nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước giữa các cơ quan gây ảnh hưởng đến người nộp thuế. Việc đẩy mạnh chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp thất nghiệp qua ngân hàng mới tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị. Hạ tầng công nghệ đảm bảo cho việc kết nối liền mạch giữa các cơ quan, lĩnh vực dịch vụ công còn chưa đồng bộ. Việc đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, nhân lực đòi hỏi chi phí lớn.

Một số kiến nghị, đề xuất nhằm thúc đẩy TTKDTM và chuyển đổi số ngân hàng

Thời gian tới, để thúc đẩy TTKDTM và chuyển đổi số ngân hàng, cần tiếp tục có sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp tại Đề án phát triển TTKDTM giai đoạn 2021 - 2025, Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng và Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán Việt Nam đến năm 2030, cụ thể:

Đối với NHNN

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về TTKDTM, chuyển đổi số, trong đó tập trung hoàn thiện, trình ban hành Nghị định mới về TTKDTM và Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng; nghiên cứu, hoàn thiện, ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn Luật Các TCTD, các nghị định về lĩnh vực thanh toán, hoạt động ngân hàng số.

Thứ hai, chỉ đạo nâng cấp, phát triển hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử, hệ thống thanh toán của các ngân hàng đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả và có khả năng kết nối, tích hợp với các hệ thống khác, mở rộng hệ sinh thái thanh toán số để phục vụ thanh toán trực tuyến.

Thứ ba, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung tại Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng và Kế hoạch phối hợp số 01/KHPH-BCA-NHNNVN (giữa Bộ Công an và NHNN) triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06, nhằm thúc đẩy, tạo thuận lợi cho các ngân hàng, tổ chức TGTT cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, bảo mật, tiện ích, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng; trong đó tập trung triển khai, kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cho phép các TCTD có thể tổ chức xác minh thông tin nhận biết khách hàng, làm sạch dữ liệu và hỗ trợ khách hàng trong tiếp cận các dịch vụ ngân hàng.

Thứ tư, tiếp tục theo dõi sát sao tình hình thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng, phối hợp chặt chẽ với các bên liên quan và chỉ đạo kịp thời các ngân hàng đẩy mạnh TTKDTM đối với các dịch vụ công. Yêu cầu TCTD đẩy nhanh hơn nữa việc mở tài khoản cho đơn vị cung ứng dịch vụ công và thông báo số tài khoản để người dân chuyển tiền thanh toán; phối hợp lắp đặt thiết bị chấp nhận thẻ, thanh toán qua QR Code để cho phép người dân thanh toán trực tiếp (tương tự như việc mua hàng hóa tại các siêu thị); xây dựng phần mềm, giải pháp kết nối với trường học, bệnh viện, hệ thống của các đơn vị cung ứng dịch vụ công để cho phép ghi nhận thông tin hóa đơn tự động, giúp người sử dụng truy cập các ứng dụng trên Internet, Smartphone và thực hiện trả tiền học phí, viện phí... thông qua các sản phẩm, dịch vụ thanh toán tiện ích của ngân hàng (thanh toán thẻ, ví điện tử, thanh toán hóa đơn, thanh toán qua QR Code...).

Thứ năm, tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn và bảo mật hoạt động thanh toán, ngân hàng, phối hợp Bộ Công an xử lý tội phạm công nghệ cao; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Để góp phần hạn chế tình trạng các đối tượng tội phạm lừa đảo khách hàng, lợi dụng dịch vụ thanh toán để sử dụng cho mục đích bất hợp pháp, cần thiết lập hạn mức giao dịch tối thiểu phải áp dụng giải pháp xác thực sinh trắc học để đảm bảo định danh chính chủ người sử dụng tài khoản thanh toán. Giải pháp xác thực sinh trắc học là công nghệ cho phép nhận diện và xác minh cá nhân thông qua các đặc điểm sinh trắc học như vân tay, mống mắt, giọng nói, hình ảnh khuôn mặt... Đây được xem là giải pháp có mức độ định danh chính chủ cao nhất và có tính bảo mật cao; hạn chế tối đa nguy cơ giả mạo, lừa đảo, gian lận khi sử dụng tài khoản thanh toán. Hiện nay, NHNN đang nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Quyết định số 630/QĐ-NHNN ngày 31/3/2017 của Thống đốc NHNN để cho phép các TCTD áp dụng xác thực sinh trắc học đối với giao dịch chuyển tiền vượt hạn mức nhất định. NHNN đang nghiên cứu để đưa ra hạn mức áp dụng phù hợp, đảm bảo cân bằng giữa trải nghiệm khách hàng và phòng, chống gian lận.

Thứ sáu, đẩy mạnh truyền thông, giáo dục tài chính nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho công chúng trong sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng.

Đối với các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking), hệ thống thanh toán nội bộ và các hệ thống thanh toán khác, đảm bảo kết nối, tích hợp với các hệ thống thanh toán quan trọng, hạ tầng kỹ thuật của các tổ chức cung ứng dịch vụ công và các hệ thống khác để cung ứng dịch vụ thanh toán một cách thuận tiện, hiệu quả cho tổ chức, cá nhân; tiếp tục nghiên cứu ứng dụng công nghệ bảo mật hiện đại trên thế giới và tuyển chọn, đào tạo đội ngũ nhân lực về công nghệ có tay nghề cao; tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán, ngân hàng; đồng thời, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh thanh toán thẻ qua các thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán (POS) và áp dụng các công nghệ, phương thức thanh toán hiện đại như: Thanh toán qua QR Code, mã hóa thông tin thẻ (Tokenization), thanh toán di động (Mobile Payment), thanh toán phi tiếp xúc (Contactless), ví điện tử tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Thứ ba, nghiên cứu có giải pháp về mô hình kết nối phù hợp, hiệu quả giữa các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT với Cổng DVCQG, hệ thống một cửa điện tử của các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, đơn vị liên quan nhằm đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện thanh toán điện tử đối với các khoản phí, lệ phí, thanh toán hóa đơn điện, nước, học phí, viện phí…

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, phát triển các sản phẩm, dịch vụ thanh toán và ngân hàng số tiện ích, dễ sử dụng, chi phí phù hợp với người dân khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với triển khai Chiến lược Quốc gia về tài chính toàn diện tại Việt Nam.

Thứ năm, phối hợp với các trung tâm thương mại, sàn thương mại điện tử, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ cần xây dựng hạ tầng mạng lưới các điểm chấp nhận thanh toán điện tử có thể bao phủ tới nhiều địa phương...

Thứ sáu, đẩy mạnh truyền thông, giáo dục tài chính nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho công chúng trong sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng.

Đối với Bộ Công an

Tiếp tục phối hợp NHNN trong triển khai Đề án 06, tiến tới cho phép TCTD khai thác nguồn dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, từ đó làm sạch dữ liệu khách hàng, xóa bỏ tài khoản ảo, tài khoản rác, đảm bảo an toàn trong giao dịch ngân hàng, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng dịch vụ thanh toán của NHTM, tổ chức TGTT cho các mục đích bất hợp pháp; ngăn chặn tội phạm công nghệ và lừa đảo trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong đó, phối hợp với ngành Ngân hàng xây dựng quy trình phối hợp nhằm hạn chế tình trạng sử dụng tài khoản ngân hàng, ví điện tử không chính chủ, ngăn chặn sớm dòng tiền và việc vi phạm pháp luật; tăng cường an ninh, bảo mật hệ thống thông tin, phòng chống mã độc, mua bán dữ liệu khách hàng; cần tăng chế tài xung quanh việc mua bán tài khoản ngân hàng để phòng tránh tội phạm lừa đảo…

Đối với Bộ Thông tin và Truyền thông

Thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông cần đẩy mạnh xử lý tình trạng sim rác, tiến tới loại bỏ sim rác, tin nhắn rác, từ đó phối hợp Bộ Công an, NHNN trong việc ngăn chặn các hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tiền trong tài khoản.

Đối với khách hàng

Cần tuân thủ theo các hướng dẫn của tổ chức cung ứng dịch vụ, đặc biệt cần nâng cao cảnh giác với những thủ đoạn của tội phạm trên mạng, chủ động cập nhật các thông tin cảnh báo về các phương thức thủ đoạn tội phạm trên các phương tiện truyền thông; cần bảo mật thông tin cá nhân, thông tin tài khoản… để tránh bị đánh cắp, lợi dụng (không trả lời tin nhắn hay email nặc danh nhằm lấy cắp thông tin của khách hàng); không thuê, cho thuê, trao đổi, mua bán, tiết lộ thông tin cá nhân/thông tin tài khoản thanh toán dưới mọi hình thức để tránh các trường hợp bị lợi dụng…

Tài liệu tham khảo:


1. Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
2. Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025.
3. Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Minh Hà (NHNN)
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Ứng dụng mô hình Q-Learning để cải thiện hiệu quả quy trình cấp tín dụng

Bài toán cấp tín dụng là một trong những vấn đề trọng yếu trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính hoặc các nền tảng cho vay ngang hàng. Mục tiêu của bài toán này là đánh giá rủi ro tín dụng của từng khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra quyết định liệu có nên cấp tín dụng hay không, nếu có thì với điều kiện như thế nào. Trong thực tế, việc đưa ra quyết định cấp tín dụng không chỉ đơn thuần là lựa chọn giữa “cấp” hay “không cấp”, mà là một quá trình ra quyết định phức tạp, cần cân bằng giữa rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận kỳ vọng. Một quyết định sai lầm, ví dụ như cấp tín dụng cho khách hàng có khả năng vỡ nợ, có thể dẫn đến tổn thất tài chính nghiêm trọng. Ngược lại, từ chối một khách hàng có khả năng hoàn trả tốt cũng là bỏ lỡ cơ hội sinh lời.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng