Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sau khủng hoảng

Nghiên cứu - Trao đổi
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2007 - 2009, đặc biệt là sự sụp đổ của tập đoàn ngân hàng Lehman Brothers đã gây chao đảo hệ thống tài chính Mỹ và châu Âu, sau đó gây tác động lan truyền đến nhiều nước khác và đẩy thế giới vào thời kì suy thoái trầm trọng kéo dài.
aa

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2007 - 2009, đặc biệt là sự sụp đổ của tập đoàn ngân hàng Lehman Brothers đã gây chao đảo hệ thống tài chính Mỹ và châu Âu, sau đó gây tác động lan truyền đến nhiều nước khác và đẩy thế giới vào thời kì suy thoái trầm trọng kéo dài.

Bên cạnh tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế, khủng hoảng cũng gây ra một cú sốc đáng kể đối với thể chế và khung khổ chính sách, buộc các nhà tạo lập chính sách phải rà soát lại một cách nghiêm túc những hạn chế của các công cụ chính sách hiện hành, nhất là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, làm cơ sở để thúc đẩy sự hình thành khung khổ chính sách mới, mà các công cụ chính sách hiện hành không thể phát huy tác dụng.

Để đẩy lùi tác động tiêu cực của khủng hoảng, ngân hàng trung ương (NHTW) các nước phát triển liên tục giảm lãi suất cơ bản, thậm chí xuống gần bằng không và lãi suất âm. Tuy nhiên, bức tranh kinh tế vẫn u ám, sản lượng kinh tế sụt giảm, thất nghiệp tăng cao, hàng loạt NHTW phải sử dụng công cụ chưa có tiền lệ dưới tên gọi “chính sách tiền tệ phi truyền thống”.


Để đẩy lùi tác động tiêu cực của khủng hoảng, ngân hàng trung ương các nước phát triển liên tục giảm lãi suất cơ bản, thậm chí xuống gần bằng không và lãi suất âm. (Ảnh minh họa. Nguồn: Internet)

1. Chính sách tiền tệ phi truyền thống

Về bản chất, chính sách tiền tệ phi truyền thống là các công cụ can thiệp chính sách trực tiếp nhằm cung cấp nguồn vốn với mức chi phi hợp lí cho các ngân hàng, doanh nghiệp và hộ gia đình. Công cụ chính sách này đã được một số NHTW nghiên cứu, áp dụng từ cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, khi nền kinh tế vấp phải những sự cố trầm trọng liên quan đến lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Trong những năm cuối thế kỉ XX, thế giới đã ghi nhận một số cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra liên tiếp với mức độ trầm trọng hơn, mặc dù chỉ mang tính quốc gia và khu vực. Điều này cho thấy, “bóng ma khủng hoảng” vẫn hiện hữu và chưa bị dập tắt hoàn toàn. Vì thế, sự vào cuộc quyết liệt của hàng loạt NHTW trên thế giới sau khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu lần này cũng thể hiện quyết tâm ngăn ngừa và kiểm soát khủng hoảng.

Qua theo dõi cho thấy, về công cụ, chính sách tiền tệ phi truyền thống bao gồm ba loại hình cơ bản: Chính sách định hướng trước (còn gọi là chính sách định hướng mục tiêu); chính sách bảng cân đối tài sản/chính sách nới lỏng định lượng; và chính sách lãi suất âm. Ngoài ra, tùy thuộc vào tình hình cụ thể tại mỗi nước, NHTW có thể sử dụng một số công cụ chính sách phi truyền thống khác như chính sách hỗ trợ thanh khoản, chính sách tiền trực thăng.

1.1. Chính sách định hướng mục tiêu

Đặt ra các mục tiêu (Forward guidance) phát triển kinh tế bằng cách đưa ra các chỉ báo rõ ràng hơn về chính sách tiền tệ trong tương lai. Đây là công cụ được NHTW Nhật Bản (BoJ) triển khai đầu tiên vào năm 1999, khi BoJ cam kết sẽ giữ lãi suất ở mức gần 0% cho đến khi tình hình giảm phát cải thiện. Sau khủng hoảng, NHTW tại Mỹ, Vương quốc Anh và một số nước phát triển khác đã áp dụng chính sách này.

Ở cấp độ khác nhau, NHTW thường thông báo về lộ trình chính sách lãi suất trong tương lai bằng cách diễn giải chiến lược của NHTW, cách thức đối phó nếu lạm phát tăng cao hoặc suy thoái xảy ra, hoặc đưa ra dự báo lãi suất và nguy cơ sẽ bị cường điệu hóa trước những bất ổn khó lường ở trong nước và quốc tế. Trong trường hợp này, NHTW cho biết, những dự báo này tùy thuộc vào thông tin thực tế và thông tin mới có thể dẫn đến một số điều chỉnh lãi suất chính sách.

Công cụ định hướng trước được thiết kế nhằm cải thiện khả năng của NHTW trong việc tác động đến mặt bằng lãi suất dài hạn bằng cách thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về chính sách tiền tệ trong tương lai. Nói cách khác, công cụ định hướng trước là sử dụng truyền thông về động thái chính sách mà NHTW có thể thực thi trong tương lai để tác động đến các thành viên thị trường, qua đó tác động đến giá cả tài sản, lãi suất dài hạn và hoạt động kinh tế. Có hai yếu tố đảm bảo thực thi chính sách này một cách hiệu quả, đó là uy tín của NHTW và hiệu quả của công tác truyền thông về quan điểm chính sách tiền tệ.

1.2. Chính sách bảng cân đối/nới lỏng định lượng

Chính sách bảng cân đối tài sản bao gồm các chương trình nới lỏng định lượng (QE) và tín dụng khác nhau. Trong đó, QE là tạo ra nguồn vốn dự trữ của NHTW để mua các tài sản tài chính (chủ yếu là trái phiếu chính phủ); nới lỏng tín dụng bao gồm các chương trình mua tài sản của khu vực tư nhân (nợ doanh nghiệp, tài sản cầm cố,…).

QE làm tăng lượng tiền cung ứng bằng cách bơm vốn cho các định chế tài chính để mở rộng cho vay và cải thiện thanh khoản, công cụ này được cân nhắc áp dụng khi lãi suất ngắn hạn tiệm cận mức 0% hoặc bằng “0”, mặc dù chưa phát hành thêm tiền. QE truyền tải thông qua hai kênh cơ bản: (i) QE đẩy giá tài sản mua vào, dẫn đến giảm lợi suất và đường cong lợi tức của nhóm tài sản này; (ii) Tác động đến tầm nhìn của các thành viên thị trường về các quyết định chính sách tiền tệ trong tương lai, khi đó các nhà đầu tư sẽ cân nhắc và quyết định mua/bán tài sản với quy mô, danh mục và kì hạn nhất định.

Nới lỏng tín dụng là chiến lược được NHTW sử dụng để nới lỏng điều kiện tín dụng trong nền kinh tế bằng cách mua tài sản của khu vực tư nhân nhằm cải thiện thanh khoản trên thị trường khó khăn, nhờ đó làm tăng dòng tín dụng để cho vay. Khác với QE, công cụ này không làm tăng dự trữ, mà chỉ thúc đẩy thị trường tín dụng, góp phần giảm bớt những căng thẳng trên thị trường tiền tệ và nới lỏng điều kiện tín dụng nói chung.

1.3. Chính sách lãi suất âm

Chính sách lãi suất âm là hiện tượng NHTW hạ lãi suất đối với tiền gửi của các ngân hàng thương mại (NHTM) xuống mức âm. Theo đó, các ngân hàng phải trả lãi suất đối với tiền gửi dư thừa tại NHTW, động thái này sẽ khuyến khích các ngân hàng sử dụng tiền một cách hiệu quả hơn, đẩy mạnh hoạt động cho vay để kinh doanh hoặc tiêu dùng. Lãi suất thực âm trên thị trường xảy ra, khi lãi suất danh nghĩa mặc dù có thể dương nhưng thấp hơn mức lạm phát. Lãi suất âm sẽ tác động đến nền kinh tế bằng cách giảm chi phí cho vay với khách hàng có nhu cầu, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Chính sách lãi suất âm thường được áp dụng trong thời kì nền kinh tế suy thoái, dù đã thực hiện các nỗ lực tiền tệ và lực lượng thị trường để đẩy lãi suất về mức 0% danh nghĩa. Đây là công cụ khuyến khích cho vay, chi tiêu, đầu tư hơn là tích trữ tiền mặt hay những tài sản khác.

Thực tế gần đây cho thấy, lãi suất cho vay và huy động giảm, là nền tảng cơ bản để khơi dậy các động lực mở rộng kinh tế cần thiết. Tuy nhiên, những lo ngại về phản ứng tiêu cực của khách hàng đã cản trở các ngân hàng thương mại trong việc giảm lãi suất tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân xuống dưới 0%. Theo thời gian, lãi suất thấp có thể giảm thu nhập cận biên và năng lực củng cố nguồn vốn.

Trong thời đại internet hiện nay, xu hướng mở tài khoản ngân hàng và giao dịch trực tuyến ngày càng tăng mạnh, góp phần giảm thiểu chi phí và thời gian. Vì thế, khi một ngân hàng thương mại quyết định giảm lãi suất tiền gửi khách hàng xuống mức âm nào đó, khách hàng vẫn có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, nếu lãi suất giảm sâu hơn, khách hàng có thể rút tiền về và chuyển sang giữ tiền mặt.

Sau khi NHTW áp dụng lãi suất âm đối với các NHTM, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng sẽ giảm về mức âm và các NHTM thường chỉ áp lãi suất âm đối với số dư tài khoản lớn của doanh nghiệp xuống một mức nhỏ nào đó, mà không áp dụng đối với tiền gửi cá nhân nhằm tránh làn sóng rút tiền ồ ạt. Một số NHTM áp dụng lãi suất âm thông qua các loại phí, nhưng không đáng kể.

Thực tế cho thấy, lãi suất âm là bộ phận cần thiết trong việc kiềm chế tác động đối ngược của dòng vốn vào, do áp lực từ dòng vốn vào tăng cao là thước đo đánh giá khả năng của các quốc gia trong việc hấp thụ toàn bộ dòng vốn này mà không gây ra tác động lớn không mong muốn.

Tháng 7/2009, NHTW Thụy Điển đã cắt giảm lãi suất tiền gửi qua đêm xuống âm 0,25% - quốc gia triển khai chính sách lãi suất âm đầu tiên. Tiếp theo là ECB, áp dụng chính sách hạ lãi suất tiền gửi xuống âm 0,1% vào tháng 6/2014. Thụy Sỹ có lúc giảm lãi suất còn âm 0,75%, Nhật Bản là âm 0,1%,...

Tại châu Âu, khi chứng kiến mức giảm phát của nền kinh tế 0,6%, NHTW Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã sử dụng công cụ lãi suất âm để ngăn chặn nguy cơ rơi vào vòng xoáy giảm phát.

Lãi suất âm cũng lan sang thị trường trái phiếu, khi tổng giá trị các loại trái phiếu trên thị trường thế giới tăng lên đỉnh cao 12,2 nghìn tỉ USD vào giữa năm 2016, lãi suất trái phiếu Chính phủ Đức và Nhật Bản (kì hạn 15 năm) và lãi suất trái phiếu Chính phủ Thụy Sỹ (kì hạn 10 năm) đã giảm xuống mức âm.

1.4. Chính sách hỗ trợ thanh khoản

Chính sách hỗ trợ thanh khoản là các giải pháp chính sách nhằm hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống tài chính như mở rộng cho vay từ NHTW đối với các NHTM, thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn dài hạn, mở rộng giao dịch repo và danh mục tài sản thế chấp, hoán đổi chứng khoán, cho vay khẩn cấp qua cửa sổ chiết khấu để bổ sung thanh khoản cho các tổ chức tài chính, kéo dài thời hạn thanh toán, nới lỏng quy định về tài sản đảm bảo, sử dụng thỏa thuận hoán đổi tiền tệ tạm thời để cung cấp thanh khoản ngoại tệ với kì hạn khác nhau trên cơ sở tài sản đảm bảo niêm yết bằng đồng bản tệ,...

1.5. Chính sách tiền trực thăng (Helicopter Money hoặc Helicopter Drop)

Tiền trực thăng là một thuật ngữ đề cập đến một loại chiến lược kích thích tiền tệ quyết liệt để tăng lạm phát và sản lượng kinh tế, được thực hiện bằng việc in một lượng tiền lớn và phân phối cho công chúng để kích thích nền kinh tế. Mặc dù chiến lược này có vẻ khả thi về mặt lí thuyết, nhưng từ quan điểm thực tế, nó được coi là một công cụ chính sách tiền tệ phi truyền thống, chỉ mang tính giả định vì rất khó thực hiện. Trong hầu hết các trường hợp, thuật ngữ tiền trực thăng là một phép ẩn dụ cho các biện pháp độc đáo để kích thích nền kinh tế trong thời kì giảm phát.

Thuật ngữ “tiền trực thăng” đến từ nhà kinh tế học nổi tiếng Milton Friedman, và trở nên phổ biến sau khi được Ben Bernanke nhắc đến trong một bài phát biểu vào tháng 11/2002, khi ông còn là một Thống đốc mới tại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).

Do phải đối mặt với sự tăng trưởng trì trệ kéo dài sang thế kỉ XXI, Nhật Bản đã cân nhắc áp dụng dụng chính sách tiền trực thăng vào năm 2016. Tuy nhiên, quốc gia này không thực hiện chính sách tiền trực thăng, mà thay vào đó đã chọn cách tăng cường mua các tài sản tài chính với quy mô lớn.

2. Áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống

2.1. Tại các nước phát triển (AEs)

Sau khủng hoảng, nhiều NHTW nước phát triển hàng đầu đã sử dụng các công cụ chính sách phi truyền thống để nới lỏng tiền tệ, phổ biến là hỗ trợ thanh khoản, định hướng mục tiêu, mở rộng bảng cân đối tài sản. Trong số này, việc triển khai các gói QE đóng vai trò đặc biệt quan trọng.

Tại Mỹ, trước khi áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống, Fed nắm giữ hơn 200 tỉ USD tín phiếu kho bạc, không nắm giữ chứng khoán nợ và các chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản thế chấp (mortgage-backed securities, MBS). Sau khi kết thúc gói QE3, Fed không còn nắm giữ tín phiếu kho bạc, mà thay vào đó là 1,75 nghìn tỉ USD chứng khoán nợ và gần 2,5 nghìn tỉ USD trái phiếu kho bạc dài hạn. Như vậy, lượng chứng khoán do Fed nắm giữ đã tăng gấp 5 lần so với thời kì suy thoái kinh tế năm 2007. Kì hạn trung bình cũng mở rộng, từ 1,6 năm lên 6,9 năm.

Tại khu vực đồng Euro, sau khi áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống, bảng cân đối tài sản của ECB đã tăng kỉ lục lên 3.700 tỉ EUR. Trong đó, khoản mục chứng khoán tăng mạnh và chiếm 61% tổng giá trị tài sản, quy mô những tài sản tài chính khác nhìn chung vẫn ổn định. Về bên nợ phải trả và nguồn vốn, khoản mục tiền gửi tăng mạnh và chiếm 36% tổng nghĩa vụ của ECB, tiền mặt trong lưu thông giảm 31%.

Tại Vương quốc Anh, quy mô bảng cân đối tài sản của NHTW Vương quốc Anh (BoE) tăng 4 lần khi chuyển từ giai đoạn khủng hoảng 2008 - 2009 (khoảng 98 tỉ GBP, với sự lấn át của chứng khoán dài hạn) sang giai đoạn phục hồi 2012 - 2013 (khoảng 400 tỉ GBP), kì hạn trung bình tăng từ 2,2 năm vào năm 2007 lên 7,8 năm vào năm 2013.

Tại Nhật Bản, quy mô bảng cân đối tài sản của BoJ tăng từ 163 nghìn tỉ JPY vào tháng 02/2013 lên 225 nghìn tỉ JPY vào đầu năm 2014, tăng từ tỉ trọng 30% GDP vào năm 2011 lên 65% GDP vào năm 2015 và 90% GDP vào cuối tháng 9/2016, cao hơn nhiều so với tỉ lệ 30% tại Fed và ECB tại thời điểm này. Phần lớn sự gia tăng tổng tài sản bắt nguồn từ trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu có thời hạn còn lại khá dài, thời gian đáo hạn trung bình tăng từ dưới 3 năm lên 7 năm và sau đó lên 10 năm. Nhờ đó, lợi suất trái phiếu chính phủ kì hạn dài đã giảm đáng kể.

Về cơ bản, chính sách tiền tệ phi truyền thống được Fed, ECB, BoE và BoJ áp dụng có sự khác nhau về thời gian triển khai thực hiện và quy mô khác nhau, nhưng đều có chung đặc điểm là trực tiếp tác động đến hệ thống tài chính. Để rút lui chính sách này, các NHTW đã lên kế hoạch thu hẹp dần bảng cân đối tài sản. Cụ thể là, chiến lược rút lui khỏi chính sách tiền tệ nới lỏng sau các gói QE được khởi xướng tại Mỹ từ ngày 29/10/2014, tiếp đến là ECB và BoE, cuối cùng là BoJ.

Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 và cuộc chiến tại Ukraine đã gây tác động nghiêm trọng đến tình hình kinh tế, lạm phát tăng cao trên toàn cầu buộc các nước phải tung ra các gói hỗ trợ tài khóa, tiền tệ để chống dịch và ổn định đời sống. Đồng thời, phải lùi lại kế hoạch bình thường hóa chính sách tiền tệ. Từ tháng 3/2022, Fed bắt đầu tiến hành tăng lãi suất, khởi đầu chu kì thắt chặt tiền tệ tại AEs.

2.2. Tại các nước đang phát triển và mới nổi (EMDEs)

Khủng hoảng cũng phần nào gây tác động tiêu cực đến EMDEs, nhưng ở cấp độ thấp hơn nhiều so với tác động lan truyền bắt nguồn từ các động thái nới lỏng tiền tệ tại AEs. Các công cụ chính sách tiền tệ phổ biến được EMDEs triển khai bao gồm: Hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ lãi suất, giảm và hoãn trả nợ vay, tăng cường quản lí, kiểm soát các dòng vốn, bảo vệ đồng bản tệ trước xu thế giảm giá USD và củng cố nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia.

Chính sách tiền tệ phi truyền thống tại Mỹ làm tăng thanh khoản USD và gây áp lực giảm giá của nó so với các đồng tiền EMDEs. Đối với những doanh nghiệp có nợ dưới dạng USD, khi quy đổi sang nội tệ, gánh nặng nợ nần sẽ giảm và bảng cân đối tài sản cải thiện. Nhờ tình hình tài chính cải thiện, khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp này sẽ cải thiện, tiếp tục tác động đến dòng tiền trong tương lai và bảng cân đối tài chính.

Khi USD mất giá, các nhà đầu tư sẽ hướng dòng vốn vào EMDEs với hi vọng có thể thu được lợi nhuận cao hơn, dẫn đến xu hướng mở rộng đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu tại EMDEs. Hoạt động đầu tư này cũng ảnh hưởng đến việc tái cân bằng danh mục đầu tư nội địa tại EMDEs, gây hiệu ứng tràn sang những thị trường tài sản khác như bất động sản, làm tăng giá tài sản tại EMDEs. Sự thay đổi về giá tài sản sẽ tác động đến hành vi đầu tư và tiêu dùng thông qua hiệu ứng tài sản (wealth effect), củng cố kênh gia tốc tài chính.

QE tại AEs làm gia tăng dự trữ trong bảng cân đối tài sản của các NHTM tại EMDEs, làm giảm phần bù thanh khoản trong cả hệ thống. Thông qua kênh truyền dẫn này, các doanh nghiệp và chính phủ nhiều EMDEs đã mở rộng vay nợ nước ngoài, dẫn đến những rủi ro tiềm tàng đối với hệ thống ngân hàng.

Nhìn chung, EMDEs đã chủ động trước diễn biến lạm phát, tỉ giá và lãi suất từ AEs hàng đầu, một số EMDEs đã phải tăng lãi suất trước áp lực tăng lạm phát. Gần đây, khi đại dịch Covid-19 được kiềm chế, hàng loạt EMDEs đã rục rịch tăng lãi suất từ năm 2021, sớm hơn nhiều so với phản ứng chính sách của Fed và NHTW các nước phát triển khác.

Về cơ bản, chính sách tiền tệ phi truyền thống tại các nước phát triển đã tác động tích cực đến EMDEs, trong đó có Việt Nam. Cụ thể là, xu hướng giảm giá USD, EUR, GBP, JPY đã thúc đẩy dòng vốn đầu tư vào EMDEs, qua đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ phi truyền thống cũng gây ra một số rủi ro nhất định, như gia tăng áp lực tăng giá và rủi ro bất ổn tài chính.

Trên toàn cầu, các chương trình kích thích tài chính đã làm tăng gánh nặng nợ nần, nhiều công ty đã bị cuốn hút vào nguồn tín dụng giá rẻ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nay phải đối mặt với tình trạng dư thừa công suất và đang chật vật tìm kiếm người mua. Tình hình này đang trở nên trầm trọng, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế tại Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đều yếu ớt, kinh tế Trung Quốc tăng chậm lại. Liên quan đến các yếu tố trong nước, nợ nần đang trở thành mối lo ngại hàng đầu trong khu vực.

Theo báo cáo về triển vọng kinh tế khu vực do WB công bố vào tháng 10/2023, tỉ trọng nợ so GDP tại hầu hết EMDEs Đông Á - Thái Bình Dương đã tăng đáng kể so với thập kỉ trước, nhất là nợ công, riêng tỉ trọng nợ doanh nghiệp tại Trung Quốc và Việt Nam tăng trên 40% GDP kể từ năm 2010 và hiện đã vượt qua tỉ trọng nợ tại các nước phát triển. Nợ các hộ gia đình tại Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan đã tăng cao hơn so với tại nhiều nước mới nổi khác trên thế giới. Nợ công tăng cao đang thu hẹp dư địa tài khóa, cản trở đầu tư công, trong khi lãi suất cao gây thiệt hại cho đầu tư tư nhân. Nợ doanh nghiệp ở mức cao cũng cản trở đầu tư tư nhân do thiếu nguồn vốn để triển khai những dự án mới. Trong khi đó, chi phí dịch vụ nợ các hộ gia đình tăng cao đang xói mòn thu nhập khả dụng và chi tiêu dùng.

Hiện nay, EMDEs châu Á đang tìm nhiều cách mới để bảo vệ đồng tiền bản tệ trước áp lực mất giá, do nhiều lo ngại về khả năng Fed sẽ duy trì lãi suất ở mức cao trong thời gian lâu hơn và căng thẳng địa chính trị gia tăng, làm suy giảm nhu cầu đối với những tài sản rủi ro. Nhìn chung, các đồng tiền châu Á hiện dễ bị ảnh hưởng trước rủi ro dòng vốn đào thoát ra ngoài do lãi suất cơ bản trong khu vực đang thấp hơn so với những khu vực khác, dẫn đến sự chênh lệch lớn so với lãi suất tại Mỹ. Từ cuối quý III/2023, USD cũng tăng giá so với hầu hết các loại tiền tệ trong khu vực, so với đầu năm 2023, Rupiah của Indonesia tăng 1,1%, Peso của Philippines tăng 2,0%, Nhân dân tệ của Trung Quốc tăng 5,3%, Baht của Thái Lan tăng 5,8% và Ringgit của Malaysia tăng 7,4%. Tại Việt Nam, áp lực tỉ giá tiếp tục gia tăng trong tháng 9 khi giá USD đã tăng lên mức 24.396 VND vào ngày 10/10/2023, tăng 1,3% so với cuối tháng 8 và tăng 3,2% so với cuối năm 2022.

Về giác độ chính sách, NHTW EMDEs đã theo dõi chặt chẽ các động thái và tác động chính sách bên ngoài, làm cơ sở để lựa chọn giữa chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách tiền tệ thắt chặt một cách phù hợp. Đối với EMDEs, chính sách tiền tệ nới lỏng đã phần nào hỗ trợ xuất khẩu, góp phần củng cố nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia, nhưng cũng đi kèm với rủi ro lạm phát và bong bóng giá tài sản. Trong bối cảnh hiện nay, khi AEs đang tìm cách đưa chính sách tiền tệ về trạng thái bình thường với độ trễ và mức độ phân kì nhất định,việc đánh giá đầy đủ tác động của những kênh truyền dẫn này là cơ sở quan trọng để đưa ra biện pháp đối phó phù hợp, đảm bảo hiệu quả chính sách tiền tệ và duy trì niềm tin vào NHTW.

3. Chính sách tiền tệ thời kì hậu Covid- 19

Do sau nhiều năm các NHTW mạnh tay nới lỏng tiền tệ để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu; thêm vào đó là tác động của đại dịch Covid-19 kéo dài, xung đột vũ trang Nga-Ukraine; đứt gãy chuỗi cung ứng do xung đột địa chính trị và các biện pháp giãn cách xã hội, đẩy lạm phát tăng cao trên toàn cầu. Đến tháng 02/2022, lạm phát tại ¾ số AEs đã tăng trên 5% so với mục tiêu đề ra, nhiều EMDE cũng ghi nhận mức lạm phát tăng trên 5%. Các nước châu Á ghi nhận mức lạm phát thấp hơn, nhưng đa phần đều cao hơn mục tiêu của NHTW, ngoại trừ Trung Quốc. Vì thế, Fed đã bắt đầu tiến hành tăng lãi suất từ tháng 3/2022 với quy mô chưa có tiền lệ, lạm phát cơ bản tại Mỹ đã quay đầu giảm từ đỉnh điểm 9,1% thiết lập vào giữa tháng 6/2022, trùng với diễn biến lạm phát toàn cầu (giảm từ đỉnh cao 11,6% vào tháng 6/2022 xuống 5,3% trong tháng 6/2023).

Trong 20 tháng qua, động thái tăng lãi suất cấp tập của các NHTW1 tại AEs chủ chốt đã dẫn đến sự hình thành quan điểm chính sách tiền tệ thắt chặt, có khả năng kéo dài đến năm 2025. Các dấu hiệu cho thấy, chính sách tiền tệ thắt chặt bắt đầu tác động đến hệ thống tài chính.


Các nỗ lực thắt chặt tiền tệ đã được đền đáp, với lạm phát liên tục giảm, trong khi nguồn tín dụng thu hẹp và thị trường nhà ở nguội lạnh. Theo báo cáo công bố tháng 10/2023 của IMF, trong quý II/2023, lạm phát cơ bản giảm trên 50% từ đỉnh điểm 11,6% vào quý II/2022 xuống 5,3%. Trong số các nền kinh tế chủ chốt, lạm phát cơ bản trong quý II/2023 dao động từ -0,1% tại Trung Quốc tới 2,8% tại khu vực Euro và 2,7% tại Mỹ. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xu hướng giảm lạm phát cơ bản là do giá năng lượng hạ nhiệt, ở cấp độ thấp hơn là do giá thực phẩm giảm. Xu hướng giảm tốc kinh tế cũng có phần bắt nguồn từ những yếu tố đặc thù quốc gia như khủng hoảng nhà đất tại Trung Quốc.

Lạm phát lõi cũng ghi nhận xu hướng giảm dần, mặc dù chậm hơn, từ đỉnh điểm 8,5% trong quý I/2022 xuống 4,9% trong quý II/2023, nhưng vẫn cao hơn tỉ lệ trung bình 2,8% trong giai đoạn 2017 - 2019. Trong số các nền kinh tế chủ chốt, lạm phát lõi trong quý II/2023 dao động từ 0,3% tại Trung Quốc tới 4,6% tại khu vực đồng Euro và 4,7% tại Mỹ. Tuy nhiên, dữ liệu lạm phát tháng 7 cho thấy, lạm phát lõi tại hầu hết AEs đã bật tăng trở lại.

Mặc dù các NHTW đã triển khai nhiều biện pháp quyết liệt, nhưng lạm phát vẫn tăng cao tại hầu hết các nước áp dụng lạm phát mục tiêu. Tại những nước có lạm phát tăng quá cao so với mục tiêu đề ra, NHTW Canada, Vương quốc Anh, châu Âu và Mỹ đã quyết định tăng lãi suất tại kì họp tháng 7/2023. NHTW Nhật Bản tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng nhưng kiểm soát lợi suất trái phiếu chính phủ theo hướng linh hoạt hơn, theo đó lợi suất trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm có thể tăng tới 1%. Tình hình tại Trung Quốc có thể coi là trường hợp ngoại lệ, với lạm phát cơ bản giảm sâu và thấp xa mục tiêu đề ra, nên NHTW đã tiến hành các đợt giảm lãi suất vào tháng 6 và tháng 8/2023.

Các ngân hàng tại Mỹ và châu Âu đã thắt chặt đáng kể điều kiện cho vay từ năm trước, và tiếp tục xu hướng này trong những tháng tới đây, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế. Tại AEs, nhu cầu vay vốn và đầu tư sụt giảm trong sáu tháng đầu năm 2023, phản ánh nguồn cung thắt chặt và nhu cầu vay vốn yếu ớt, khi nhiều doanh nghiệp bắt đầu giảm tỉ lệ đòn bẩy do lãi suất quá cao và sản lượng tăng quá mức. Lãi suất cao cũng gây áp lực lên các ngân hàng, cả trực tiếp và gián tiếp. Thị trường nhà đất cũng trầm lắng, giá nhà ở tại một số nước tăng chậm hoặc đảo chiều kể từ khi bắt đầu chu kì thắt chặt tiền tệ này, và tỉ lệ phá sản gia tăng tại một số nước (tại Mỹ đã tăng 20% so với năm trước), khi các nguồn tài chính hỗ trợ trong mùa dịch đã cạn kiệt. Tại hầu hết các nước, tỉ lệ phá sản vẫn thấp hơn trước đại dịch, nhưng có vẻ đang tăng nhanh.

Với tình hình trên, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh giảm dự báo GDP toàn cầu, do tốc độ phục hồi chậm chạp và triển vọng kinh tế toàn cầu có vẻ xấu đi. Cụ thể là, GDP toàn cầu được dự báo giảm từ kết quả tăng 3,5% trong năm 2022 xuống mức tăng 3,0% trong năm 2023 và 2,9% trong năm 2024. Như vậy, báo cáo đã điều chỉnh giảm 0,1% GDP năm 2024 so với dự báo cách đây ba tháng2.


4. Một số bài học rút ra trong điều hành chính sách tiền tệ

Năm 2024, dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chậm lại, xu hướng tiêu dùng giảm, lạm phát giảm nhưng vẫn ở mức cao so với mục tiêu, thị trường tài chính, tiền tệ thế giới sẽ có nhiều biến động, chịu ảnh hưởng bởi khả năng kiềm chế lạm phát và chính sách tiền tệ của các nước phát triển (nhất là chính sách lãi suất của Fed). Tình hình kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, gây áp lực đối với quản lí, điều hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhất là trong bối cảnh chính sách tiền tệ phải thực thi nhiều nhiệm vụ như kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, giảm mặt bằng lãi suất, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng. Qua nghiên cứu, tổng hợp kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ của các NHTW nêu trên, có thể rút ra một số bài học sau:

Một là, NHTW các nước đang phát triển cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ các động thái và tác động chính sách từ bên ngoài, nhất là NHTW của các nước lớn để làm cơ sở lựa chọn chính sách “nới lỏng” hay “ thắt chặt” một cách phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước. Đồng thời, các NHTW cần phải theo dõi chặt chẽ tác động của xu hướng tăng giá hàng hóa trên toàn cầu đối với kì vọng lạm phát trong nước, qua đó đưa ra biện pháp đối phó và thắt chặt tiền tệ một cách phù hợp để kiểm soát chu kì tác động của lạm phát đối với tiền lương và kì vọng lạm phát, tác động của tiền lương và kì vọng lạm phát đến xu hướng tăng lạm phát.

Hai là, kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an toàn hệ thống; từ đó, đưa ra các giải pháp, công cụ chính sách một cách nhất quán, linh hoạt nhưng không chủ quan, đó là cách thức chỉ đạo điều hành đúng hướng, cần tiếp tục thực hiện trong những năm tiếp theo.

Ba là, chỉ áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống khi chính sách tiền tệ truyền thống bị kém hiệu lực, hiệu quả. Chính sách phi truyền thống bao gồm nhiều công cụ khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước. Đối với những nước có thị trường tài chính phát triển thì công cụ áp dụng là “nới lỏng định lượng”. Tuy nhiên, đối với nước có thị trường tài chính kém phát triển thì phải áp dụng chính sách nới lỏng tín dụng, do triển khai chính sách nới lỏng định lượng sẽ không hiệu quả.

Bốn là, các NHTW cần định kì thông báo rõ ràng về triển vọng chính sách lãi suất và quan điểm điều hành chính sách tiền tệ dựa trên các dữ liệu thực tế, bằng cách diễn giải chiến lược của NHTW để các chủ thể trong nền kinh tế thay đổi hành vi.

Năm là, tăng cường công tác truyền thông chính sách của NHTW, xây dựng chiến lược, kịch bản cụ thể (chiến lược và kịch bản phải hoàn thành ngay từ đầu năm để các đơn vị liên quan thực hiện). Những thông tin về các giải pháp điều hành trong tương lai phải được thông tin rõ ràng, bằng ngôn ngữ dễ hiểu và được phát ra từ người phát ngôn của NHTW hoặc được Thống đốc ủy quyền nhằm tránh những thông tin sai lệch và tạo niềm tin của công chúng.

Sáu là, phát triển thị trường chứng khoán, qua đó giúp NHTW có nhiều sự lựa chọn hơn khi thị trường tài chính bị khủng hoảng, gây khó khăn trong việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTW.

1 Tính từ đầu tháng 3/2022 đến ngày 15/11/2023, có 475 lượt điều chỉnh tăng lãi suất chính sách của NHTW các nước trong khi chỉ có 79 lượt điều chỉnh giảm, riêng năm 2023 có 152 lượt tăng và 63 lượt giảm; 10 tháng cuối năm 2022 có 323 lượt tăng và 16 lượt giảm. Cụ thể, Fed có 11 lần tăng lãi suất chính sách liên tiếp (từ 16/3/2022 - 26/7/2023) với tổng mức tăng 525 điểm cơ bản, hiện ở mức 5,25 - 5,5%/năm (mức lãi suất cao nhất trong vòng 22 năm); ECB có 10 lần tăng liên tục (từ 21/7/2022 - 14/9/2023) với tổng mức tăng 450 điểm cơ bản, hiện ở mức 4,5%/năm (mức lãi suất cao nhất trong vòng 23 năm); BoE có 13 lượt điều chỉnh tăng lãi suất liên tục (từ 03/3/2022 - 03/8/2023) với tổng mức tăng 500 điểm cơ bản, hiện ở mức 5,25% (mức lãi suất cao nhất trong vòng 15 năm), đều ghi nhận là các mức lãi suất điều hành cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.

2 Báo cáo cũng điều chỉnh triển vọng GDP tại các nền kinh tế chủ chốt: Tăng mạnh dự báo GDP tại Mỹ, hạ dự báo GDP tại Trung Quốc và khu vực đồng Euro. Dự báo GDP 2023 - 2024 cũng thấp hơn so với dự báo đưa ra khi dịch Covid-19 bắt đầu hoành hành (2020 - 2022): Báo cáo tháng 01/2022 dự báo GDP toàn cầu tăng 3,8% trong năm 2023 và 3,4% trong năm 2024. Dự báo GDP năm 2023 - 2024 cũng thấp hơn kết quả tăng trung bình 3,8% trong giai đoạn 2000 - 2019. Tăng trưởng thấp hơn mức trung bình lịch sử cũng được ghi nhận tại các nhóm quốc gia, cả về GDP tổng thể và GDP theo đầu người. Từ quý IV/2022, kinh tế toàn cầu bắt đầu thoát đáy, nhưng kinh tế một số quốc gia hàng đầu vẫn chưa thể thoát đáy trong 6 tháng cuối năm 2023.


Nguồn tham khảo: IMF, WB, NHTW các nước, Investopedia.

ThS. Vũ Xuân Thanh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng