Điểm nhấn phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 2015, triển vọng 2016

Nghiên cứu - Trao đổi
Dù đối diện với nhiều khó khăn và áp lực về diễn biến tiền tệ, giá dầu, cạnh tranh thị trường, cùng các xung đột khu vực và quốc tế đa dạng khác, năm 2015, Việt Nam ghi nhận nhiều khởi sắc nhất trong...
aa

Dù đối diện với nhiều khó khăn và áp lực về diễn biến tiền tệ, giá dầu, cạnh tranh thị trường, cùng các xung đột khu vực và quốc tế đa dạng khác, năm 2015, Việt Nam ghi nhận nhiều khởi sắc nhất trong 5 năm qua về phát triển kinh tế - xã hội, chuẩn bị cho năm 2016 với nhiều kỳ vọng lớn lao và tự tin hơn... Theo Ngân hàng ANZ, năm 2015, Việt Nam được đánh giá là “ánh sáng hiếm hoi” trong bức tranh ảm đạm của hầu hết các nền kinh tế mới nổi và là một trong ba nền kinh tế hứa hẹn về tăng trưởng ở châu Á.


TS. Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Trần Minh Trí


1. Những điểm nhấn phát triển kinh tế - xã hội năm 2015
Thứ nhất, GDP vượt mức kế hoạch cả năm và cao nhất 5 năm qua
Năm 2015, ghi nhận 4 điểm nhấn tích cực nổi bật về tăng trưởng kinh tế:
Thứ nhất, GDP ước tăng 6,68%, mức cao nhất 5 năm qua (so với mức tăng 5,89% năm 2011; 5,03 % năm 2012; 5,42% năm 2013 và 5,98 % năm 2014);
Thứ hai, lần đầu tiên trong 5 năm qua vượt kế hoạch đặt ra (6,2%);
Thứ ba, năm thứ tư liên tiếp có mức tăng GDP quý sau luôn cao hơn quý trước (năm 2015: quý I tăng 6,12%, quý II tăng 6,47%, quý III tăng 6,87%; quý IV tăng 7,01%; Năm 2014: quý I tăng 5,06%, quý II tăng 5,34%, quý III tăng 6,07% và quý IV tăng 6,96%; Năm 2013: quý I tăng 4,76%, quý II tăng 5,00%, quý III tăng 5,54% và quý IV tăng 6,04%; Năm 2012: quý I tăng 4,64%, quý II tăng 4,80%, quý III tăng 5,05% và quý IV tăng 5,44%).
Thứ tư, đây là năm tiếp tục xu hướng cải thiện hiệu quả đầu tư, với tốc độ tăng GDP nhanh hơn tốc độ tăng vốn đầu tư xã hội hàng năm, cụ thể: tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2015 theo giá hiện hành ước đạt 1367,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2014 và bằng 32,6% GDP, trong khi tốc độ tăng GDP là 6,68%, so với con số tương ứng năm 2014 là bằng 31% GDP và 5,98% GDP; năm 2013 là 30,4% GDP và 5,42% GDP; năm 2012 là 33,5% GDP và 5,03% GDP...
Những điểm trên cho thấy, xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, ổn định và hiệu quả hơn của Việt Nam, dù tăng GDP không phải là mục tiêu quan trọng nhất và chỉ tiêu duy nhất đánh giá quá trình phát triển kinh tế của nước ta trong nhiều năm qua.
Năm 2015, với quy mô dân số là 91,7 triêu người, GDP bình quân theo giá hiện hành tương đương 2109 USD/người, tăng 57 USD so với năm 2014. Vì yếu tố giá cả, thời tiết và sâu bệnh, năm nay, nông nghiệp chỉ tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm 2014, trong khi công nghiệp và xây dựng tăng 9,64%, cao hơn nhiều mức tăng 6,42% của năm trước, còn dịch vụ tăng 6,33%.
Thứ hai, lạm phát thấp, nợ xấu giảm nhanh và thị trường ngoại hối tương đối ổn định
Lạm phát cơ bản năm 2015 là 2,01%. CPI tháng 12-2015 tăng 0,02% so với tháng trước. Ðặc biệt, cả hai chỉ số CPI so với cùng kỳ năm 2014 (tăng 0,6% ) và CPI bình quân năm 2015 so với bình quân năm 2014 (tăng 0,63% so với mục tiêu tăng 5%) đều là mức thấp nhất trong 14 năm trở lại đây. Cần nhấn mạnh rằng, lạm phát năm nay thấp, dù tăng trưởng tín dụng khoảng 17,02% so với cuối năm 2014 (mức tăng cao nhất kể từ năm 2011) và tổng bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (tổng cầu tiêu dùng trong nước) cả năm 2015 tiếp tục tăng cao hơn năm trước. Ðây là thành tích đáng ghi nhận như là hệ quả tích cực của việc kiểm soát đầu tư công và phát hành công cụ thanh toán; giảm thuế, lãi suất, giảm giá nguyên, nhiên liệu và chi phí kinh doanh đầu vào (so với năm trước xăng dầu giảm 40,4%; sắt thép giảm 15,6%; chất dẻo giảm 13%; phân bón giảm 14,1%); công tác bình ổn và lưu thông hàng hóa tốt; thị trường ngoại hối cả năm khá ổn định. Chỉ số giá vàng bình quân năm 2015 giảm 4,73% so với năm 2014. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân năm 2015 tăng 3,16% so với năm 2014 do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ động điều chỉnh tỷ giá trước biến động tiền tệ thế giới...
Lạm phát thấp giúp huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2015 tăng 13,49%, mặc dù lãi suất trong năm tiếp tục giảm, còn khoảng 40% so với mặt bằng lãi suất năm 2011.
Nợ xấu năm 2015 được cải thiện, giảm nhanh còn khoảng 2,93% tổng dư nợ toàn ngành vào cuối quý III/2015, so với mức trên 17% năm 2011. Ðây là kết quả nỗ lực chung, nhờ những giải pháp đồng bộ: Phân loại nợ; cơ cấu lại nợ và trích lập dự phòng rủi ro; nâng cao chất lượng tín dụng và thông tin tín dụng, kiểm soát nợ xấu mới phát sinh; nhận diện nợ chính xác, đầy đủ hơn và quá trình xử lý nợ trở lên minh bạch hơn và mang tính thị trường đậm nét hơn; tăng trần dư nợ tín dụng mới; nới “room” sở hữu và điều kiện kinh doanh trên thị trường tài chính - tiền tệ và bất động sản cho người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tăng kiểm soát giảm thiểu quy mô, mặt trái của tình trạng sở hữu chéo và tình trạng sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ cho phép; tăng sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh ngân hàng; thúc đẩy các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD trên nguyên tắc tự nguyện và bắt buộc theo quy định của pháp luật, trong đó có cả việc NHNN mua lại 3 ngân hàng thương mại (NHTM) với giá 0 đồng; khuyến khích mua bán nợ và công cụ nợ phái sinh trên thị trường thứ cấp theo đúng giá trị và cơ chế thị trường; cho phép khoanh nợ, giãn nợ và xóa một số khoản nợ xấu, mở rộng cho vay và nới lỏng hơn điều kiện vay...
Theo Bộ Tài chính, dự kiến tổng thu NSNN năm 2015 sẽ vẫn đạt và vượt kế hoạch (tính đến 15 - 12 đã đạt 884,8 nghìn tỷ đồng, bằng 97,1% dự toán cả năm), dù giá dầu thô cuối năm 2015 tiếp tục sụt giảm còn bằng 30% so với giá giữa năm 2014, khiến xuất khẩu dầu thô giảm 0,5% về lượng và trên 47% về kim ngạch và tổng thu ngân sách từ dầu tính đến 15 - 12 năm 2015 là 62,4 nghìn tỷ đồng, bằng 67,1% dự toán, chiếm 6% trong tổng thu NSNN. Năm 2015, khai thác dầu thô tăng 7,5%, nhưng xuất khẩu dầu thô giảm 0,5% về lượng so với năm 2014, cho thấy Việt Nam đã linh hoạt hơn trong điều hành dự trữ và gia tăng chế biến dầu thô trong nước...
Năm 2015, cán cân thanh toán quốc tế tiếp tục thặng dư khá cao. Dự trữ ngoại hối đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings tháng 11/2015 công bố đánh giá tín nhiệm nhà phát hành nợ dài hạn bằng ngoại tệ và nội tệ (IDRs) của Việt Nam ở mức BB - với triển vọng ổn định.
Thứ ba, môi trường kinh doanh, chỉ số cạnh tranh và kinh tế đối ngoại có nhiều khởi sắc rõ rệt
Năm 2015, môi trường và cơ hội kinh doanh có sự cải thiện đáng kể cùng với sự cải thiện cung - cầu và các giao dịch thành công trên thị trường bất động sản (nhất là phân nhà ở xã hội); tăng sức mua thị trường và giảm nhẹ chi phí kinh doanh trong nước nhờ giảm thuế, giảm mặt bằng lãi suất cho vay và tăng tự do hóa đầu tư. Ðặc biệt, từ 1/7/2015, khi Luật Ðầu tư 2014 chính thức có hiệu lực, đã giảm từ 49 còn 6 lĩnh vực hạn chế đầu tư và bãi bỏ tới 3.299 điều kiện kinh doanh trong số 6.475 điều kiện kinh doanh thuộc các cấp độ khác nhau. Từ nay, chỉ có Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ mới có quyền ban hành các quy định về điều kiện kinh doanh.
Năm 2015, ngành Thuế đã giảm thêm 50 giờ nộp thuế của doanh nghiệp, khiến tổng thời gian giảm trong 2 năm 2014 và 2015 là 420 giờ (từ 537
giờ/năm xuống còn 117 giờ/năm, tức 78% số giờ thực tế). Hiện hơn 98% các doanh nghiệp đã kê khai thuế qua mạng; trên 80% doanh nghiệp đã nộp thuế theo phương thức điện tử; hơn 98% kim ngạch xuất nhập khẩu đã được thông quan điện tử.
Những cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam đã được thế giới ghi nhận. Việt Nam tăng 3 bậc so với năm trước, xếp thứ 90/189 quốc gia, trong Báo cáo chỉ số Môi trường kinh doanh (Doing Bussiness 2016) do WB công bố ngày 28/10/2015. Ðáng ấn tượng hơn, Việt Nam tăng 12 bậc (xếp thứ 56) so với năm ngoái (xếp thứ 68) trong cáo báo cáo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) về năng lực cạnh tranh (GCR) 2015 - 2016 công bố hôm 29.9.2015.
Theo Báo cáo Tổng cục Thống kê, Chỉ số năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) giai đoạn 2011 - 2015 của Việt Nam đạt bình quân 28,94%/năm. Năng suất lao động tăng bình quân
3,8%/năm. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2015 tăng 19 bậc so với năm 2010.
Năm 2015, chứng kiến những sự kiện lớn về kinh tế đối ngoại của Việt Nam, như ký FTA Việt Nam - Liên minh hải quan Nga - Belarus - Kazaxtan; kết thúc đàm phán FTA Việt Nam EU và TPP; FTA Việt Nam - Hàn Quốc có hiệu lực từ 20/12; và cuối năm 2015 chính thức hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Ðến nay, Việt Nam đã mở rộng quan hệ thị trường thương mại tự do với 55 quốc gia và nền kinh tế, trong đó có 15 quốc gia trong Nhóm G-20. Việt Nam cũng đã được 59 quốc gia công nhận có nền kinh tế thị trường; Việt Nam đang tiếp tục đàm phán, cũng như khởi động đàm phán mới với nhiều nước trong một số FTA khác...
Năm 2015, thu hút FDI tiếp tục cải thiện cả về tổng vốn đăng ký mới và vốn mở rộng, cũng như vốn thực hiện. Tính đến 15-12, cả nước có tổng vốn FDI đăng ký mới và vốn bổ sung đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014. FDI thực hiện năm 2015 ước đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm trước. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút FDI lớn nhất, chiếm 66,9% tổng vốn FDI đăng ký. TP.Hồ Chí Minh dẫn đầu với 18% tổng vốn FDI đăng ký cấp mới. Từ tháng 10-2015, Hàn Quốc cũng đã vượt Nhật Bản, trở thành nước có dòng FDI dẫn đầu vào Việt Nam, với lũy kế 4.777 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đạt 43,6 tỷ USD.
Năm 2015, khu vực doanh nghiệp trong nước ghi nhận sự cải thiện khá đậm nét so với năm trước ở sự gia tăng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (94.754 doanh nghiệp, tăng 26,6%); số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (21.506 doanh nghiệp, tăng 39,5%); số vốn đăng ký (601,5 nghìn tỷ đồng, tăng 39,1% ); số vốn tăng thêm (851 nghìn tỷ đồng, vượt khoảng 27% số vốn mới đăng ký) và số việc làm mới tạo ra của các doanh nghiệp... Trong khi, số doanh nghiệp giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm 2015 là 9.467 doanh nghiệp, giảm 0,4% so với năm trước. Tuy nhiên, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 71.391 doanh nghiệp, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước (riêng tháng 12 tăng tới 80% so với tháng trước). Dù vì nhiều lý do khác nhau, song điều này cũng cho thấy bức tranh khu vực doanh nghiệp trong nước không chỉ có màu hồng.
Năm 2015, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 7943,7 nghìn lượt người, giảm 0,2% so với năm trước. Ðây là năm đầu tiên ghi nhận mức giảm kể từ năm 2009, với 13 tháng liên tiếp giảm và chỉ tăng trở lại liên tục trong 6 tháng cuối năm 2015; một phần nhờ Việt Nam mở rộng diện miễn Visa cho du khách thêm 5 nước, nâng tổng số lên 22 nước được miễn visa cho du khách.

Theo chỉ đạo của chính phủ, năm 2016, Việt Nam tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô



Thứ tư, tái cơ cấu kinh tế được tăng cường, cân đối thương mại hàng hóa và dịch vụ tiếp tục xuất siêu
Năm 2015, chứng kiến những chuyển động tích cực về tái cơ cấu kinh tế, nhất là trong mua bán, sáp nhập các ngân hàng và chuyển nhượng dự án bất động sản; thu hồi các dự án chậm triển khai, dùng sai mục đích sử dụng đất; cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp (bệnh viện) công và sắp xếp, cổ phần hóa các DNNN; đặc biệt, tăng cường sử dụng giống mới, ứng dụng công nghệ bảo quản, chế biến nông sản hiện đại; mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp theo mô hình liên kết chuỗi và quy mô công nghiệp); tăng cường hoạt động M&A trong nhiều lĩnh vực.
Năm 2015, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 162,4 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2014, mức tăng thấp nhất trong 5 năm qua. Một số mặt hàng nông sản và khoáng sản giảm khá mạnh cả về lượng và giá trị như: Cà phê giảm 24,3% về lượng và giảm 27,8% về giá trị; chè giảm 6% và giảm 7%; dầu thô giảm 0,6% và giảm 47,3%; than đá giảm 76,1% và giảm 66,7%; khẩu thủy sản giảm 15,6% về giá trị. Riêng cao su tăng 7,2% về lượng, nhưng giảm 13,6% kim ngạch. Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, với kim ngạch 33,5 tỷ USD, tăng 17% so với năm 2014 và chiếm tỷ trọng 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tính chung cả năm 2015, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 165,6 tỷ USD, tăng 12% so với năm trước (tăng 18,9% nếu loại trừ yếu tố giá), trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 98 tỷ USD, tăng 16,4%; khu vực kinh tế trong nước đạt 67,6 tỷ USD, tăng 6,3%.
Năm 2015, Việt Nam xuất siêu 25,5 tỷ USD sang Mỹ và 20,6 tỷ USD sang FU; nhập siêu từ Trung Quốc ước tính 32,3 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm trước; Hàn Quốc ước tính 18,7 tỷ USD, tăng 28%; ASEAN ước tính 5,5 tỷ USD, tăng 44,7%; từ Nhật Bản hơn 300 triệu USD sau nhiều năm xuất siêu. Tổng nhập siêu cả nước 3,2 tỷ USD, trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 20,3 tỷ USD, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 17,1 tỷ USD.
Với kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cùng tính theo giá FOB (Loại trừ 9 tỷ USD phí vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu được tính vào nhập khẩu dịch vụ) thì cân đối thương mại hàng hóa năm 2015 ước xuất siêu 5,8 tỷ USD, giảm 44% so với năm 2014. Cân đối thương mại hàng hóa và dịch vụ năm 2015 ước tính xuất siêu 1,5 tỷ USD, giảm 77% so với năm 2014, trong đó hàng hóa xuất siêu 5,8 tỷ USD, dịch vụ nhập siêu 4,3 tỷ USD.
Thứ năm, công tác an sinh xã hội đạt nhiều kết quả
Năm 2015, ghi nhận sự giảm tiếp tỷ lệ nghèo (còn 4,5%) theo chuẩn cũ. Cả nước có 227,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 27,8% so với năm trước, tương ứng với 944 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 29,6%. Ðặc biệt, chương trình “Bò giống giúp người nghèo biên giới” trao tặng 24.000 con bò giống (trị giá 360 tỷ đồng) cho đồng bào nghèo 11 tỉnh biên giới đã hoàn thành chỉ sau một năm rưỡi triển khai, sớm hơn 1 năm so với dự kiến.
Năm 2015, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động là 1,82% (thấp hơn mức 2,40% năm 2014). Ước tính trong năm 2015 cả nước có 56% lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản có việc làm phi chính thức, giảm nhẹ so với năm trước. Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2015 ước tính tăng 6,4% so với năm 2014.

2. Triển vọng phát triển kinh tế - xã hội năm 2016
Năm 2016, kinh tế đối ngoại có nhiều cơ hội phát triển tốt, vừa là điều kiện vừa là điểm sáng cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Nhiều cơ hội kinh doanh và triển vọng thị trường xuất khẩu sẽ khởi sắc hơn, nhất là khu vực kinh tế tư nhân và FDI. Nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ và kinh tế biển sẽ tiếp tục là hướng đầu tư khai thác hiệu quả. Du lịch và một số ngành dịch vụ chất lượng cao cũng kỳ vọng sẽ tiếp tục được cải thiện và tăng trưởng tốt, gắn với tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, năm 2016 có thể có sự tăng áp lực kiểm soát cân đối NSNN, nợ công, lãi suất và tỷ giá, dù thanh khoản của hệ thống vẫn được giữ vững…
Ðặc biệt, từ 01/012016, việc đo lường nghèo ở Việt Nam chính thức chuyển từ đơn chiều - thu nhập sang đa chiều, tức sử dụng cả tiêu chí thu nhập và 10 tiêu chí về tiếp cận 5 dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin). Trước mắt, áp dụng chuẩn nghèo mới sẽ làm tăng tỷ lệ nghèo (năm 2015 nếu tính theo chuẩn mới tỷ lệ nghèo sẽ là 12% và cận nghèo là 6%) và khiến quá trình giảm nghèo chậm (do yêu cầu đa dạng và cao hơn); nhưng tạo cơ hội bình đẳng và thuận lợi hơn (vì không chỉ trông vào tăng thu nhập) trong nhận diện hộ nghèo; góp phần cải thiện tình trạng cưỡng bức thoát nghèo hay “chạy công nhận hộ nghèo”, tăng động lực giảm nghèo lành mạnh, thực chất và bền vững hơn, đáp ứng được nhu cầu người dân và mang tính hội nhập với các chuẩn mực chung của khu vực và thế giới cao hơn…


(Tạp chí Ngân hàng số 1, tháng 1/2016)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Từ thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế thông thoáng để huy động các nguồn vốn cho phát triển nhà ở để bán, cho thuê như: Thành lập Quỹ phát triển nhà ở của các địa phương; huy động vốn của các tổ chức tín dụng; huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính, có nhu cầu mua nhà ở; huy động vốn thông qua các hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh liên kết...
Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Xem thêm
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc