Covid-19 và dư địa của chính sách tiền tệ

Nghiên cứu - Trao đổi
Vào cuối năm 2019, sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế thế giới đã dẫn đến một số dự báo về nguy cơ suy thoái toàn cầu có thể xảy ra trong năm 2020. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hậu Covid-19 c...
aa

Vào cuối năm 2019, sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế thế giới đã dẫn đến một số dự báo về nguy cơ suy thoái toàn cầu có thể xảy ra trong năm 2020.



Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hậu Covid-19 cần có chính sách tăng chi tiêu cho đầu tư công, đặc biệt là cho an sinh xã hội để thúc đẩy cầu trong nước

Mặc dù vậy, tại thời điểm đó, ít ai nghĩ tới một cuộc suy thoái sâu, rộng như hiện nay, và nguyên nhân là do sự bùng phát khó kiểm soát của dịch bệnh Covid-19. Trong bối cảnh kinh tế bị đình trệ do các biện pháp đóng cửa biên giới và giãn cách xã hội, hầu hết tất cả các nước trên thế giới đều đã triển khai các chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng quy mô lớn.

Tại Việt Nam, Chính phủ và các Bộ, ngành cũng đã ban hành nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn đà suy giảm tăng trưởng nền kinh tế, trong đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là đầu mối hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, có thể nhận định rằng, sau một loạt các động thái nới lỏng của NHNN từ đầu năm cho đến nay, dư địa của chính sách tiền tệ không còn nhiều. Sự phục hồi của nền kinh tế trong giai đoạn hậu Covid-19, bởi vậy, cần dựa nhiều hơn vào các chính sách khác như chính sách tài khóa, đặc biệt là việc mở cửa trở lại biên giới với các nước.

1. Tác động của Covid-19 và các giải pháp ứng phó chủ yếu của ngành Ngân hàng thời gian qua

Các số liệu được Tổng cục Thống kê công bố mới đây cho thấy, những ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 đến nền kinh tế Việt Nam là rất lớn và chưa từng thấy. Trong 6 tháng đầu năm 2020, nền kinh tế Việt Nam chỉ tăng trưởng 1,81% so với cùng kỳ năm trước - thấp nhất trong lịch sử kể từ khi thực hiện cải cách mở cửa đến nay. Các tác động tiêu cực của Covid-19 chủ yếu rơi vào quý II/2020, khi Việt Nam và các nước thực hiện đóng cửa biên giới cũng như các biện pháp giãn cách xã hội trên quy mô lớn. Điều này được thể hiện qua việc GDP quý I/2020 vẫn tăng 3,82% so với cùng kỳ năm trước, trong khi quý II chỉ tăng 0,36%.

Covid-19 không chỉ tác động tiêu cực đến các ngành dịch vụ như du lịch, hàng không, nhà hàng, khách sạn, xuất nhập khẩu..., mà còn lan sang cả các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Cụ thể, khu vực dịch vụ trong 6 tháng đầu năm nay chỉ tăng trưởng 0,57% với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng giảm 5,3% so với cùng kỳ năm trước (sau khi loại trừ yếu tố giá). Đối với khu vực công nghiệp và xây dựng, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 2,98%, trong đó ngành công nghiệp tăng 2,71%. Con số này của ngành nông nghiệp chỉ là 1,19%. Xuất khẩu, một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của Việt Nam thời gian qua, cũng bị sụt giảm 1,1% trong nửa đầu năm 2020.

Các đối tượng chịu ảnh hưởng của Covid-19 cũng rất rộng, nhưng chủ yếu là người lao động (72% thuộc khu vực dịch vụ, 67,8% thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, và 25,1% trong lĩnh vực nông nghiệp). Theo ước tính, tổng số có khoảng 30,8 triệu người, chiếm hơn một nửa lực lượng lao động, chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch bệnh dưới nhiều hình thức như bị mất việc làm, bị giãn việc/nghỉ luân phiên hay bị giảm giờ làm. Thu nhập bình quân/tháng của người lao động trong quý II/2020 không những không tăng, mà còn giảm 279.000 đồng so với cùng kỳ năm trước.

Trên thực tế, mức suy giảm về tăng trưởng, việc làm và thu nhập có thể còn lớn hơn, nếu Chính phủ không đưa ra các giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, trong đó có các giải pháp về tiền tệ và tín dụng. Ngay từ khi dịch bệnh bắt đầu bùng phát tại Việt Nam, ngày 13/3/2020, NHNN đã chủ động ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19. Tiếp đó, ngày 16/3/2020, NHNN đã ban hành một loạt các Quyết định 418/QĐ-NHNN, Quyết định 423/QĐ-NHNN về việc giảm các lãi suất điều hành. Đến ngày 13/5/2020 một đợt cắt giảm lãi suất điều hành mới đã được NHNN thực hiện theo các Quyết định 918/QĐ-NHNN, Quyết định 920/QĐ-NHNN.

Các chính sách của NHNN đã góp phần dẫn đến những chuyển động tích cực trên thị trường tài chính. Lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh, có thời điểm đã xuống sát mức 0% đối với kỳ hạn qua đêm. Lãi suất huy động cũng giảm mạnh. Cụ thể, hiện nay (thời điểm đầu tháng 9/2020), lãi suất huy động VND kỳ hạn 1 tháng cao nhất tại 4 NHTM Nhà nước, bao gồm Vietcombank, Vietinbank, BIDV và Agribank, chỉ còn khoảng 3,5%/năm. Các NHTM cũng đã từng bước cơ cấu nợ cho doanh nghiệp, giảm lãi suất cho vay. Tính đến 14/9/2020, ngành Ngân hàng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho trên 271.000 khách hàng với dư nợ 321 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho gần 485 nghìn khách hàng với dư nợ 1,18 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ 23/01/2020 đến nay đạt 1,6 triệu tỷ đồng, lãi suất thấp hơn phổ biến từ 0,5 - 2,5% so với trước dịch¹.



2. Chính sách tiền tệ có còn dư địa?

Với việc GDP trong nửa đầu năm 2020 chỉ tăng trưởng 1,81%, và dự báo cả năm nay chỉ tăng trưởng khoảng 3-4%, đã có một số đề xuất rằng chính sách tiền tệ cần nới lỏng hơn nữa, theo hướng hạ thêm lãi suất điều hành và nới “room” tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế, dư địa để giảm lãi suất và nới “room” tín dụng không nhiều và tác động của việc nới lỏng tiền tệ (nếu có) đến tăng trưởng kinh tế cũng không lớn bởi một số lý do sau:

Thứ nhất, về lý thuyết cũng như trên thực tế, chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng. Với việc lãi suất qua đêm đang ở mức rất thấp trong lịch sử (gần 0%), còn lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm cũng đã ở mức dưới 2% vào cuối tháng 6/2020, việc giảm thêm lãi suất ngắn hạn là khó khả thi.

Thứ hai, do sự liên thông giữa thị trường 1 và thị trường 2 không hoàn hảo, nên lãi suất thấp trên thị trường 2 không phải lúc nào cũng chuyển hóa thành lãi suất thấp trên thị trường 1. Nói cách khác, lãi suất huy động trên thị trường 1 có sự độc lập tương đối, nhất là khi các NHTM đã không còn hạn mức sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Thời gian qua, việc lãi suất huy động và cho vay trên thị trường 1 giảm, trên thực tế, không chỉ do các chính sách của NHNN, mà còn do nhu cầu tín dụng của nền kinh tế rất yếu, tính đến ngày 16/9/2020, tín dụng tăng 4,81% so với cuối năm 2019.

Thứ ba, tại Việt Nam, tác động của chính sách tiền tệ nới lỏng tới tăng trưởng kinh tế không lớn, nhưng tác động của cung tiền và lãi suất đến lạm phát lại rất đáng kể. Các so sánh ở bảng 1 cho thấy, trong giai đoạn 2005 - 2011, lãi suất thực thấp (âm) còn tốc độ tăng cung tiền cao hơn nhiều so với giai đoạn 2012 - 2018, nhưng kết quả là tăng trưởng GDP của giai đoạn 2005 - 2011 chỉ cao hơn 0,28%/năm so với giai đoạn 2012 - 2018, còn lạm phát thì cao hơn nhiều và vượt mức 2 con số.

Những kinh nghiệm trong quá khứ hàm ý rằng, khi nới lỏng tiền tệ, NHNN sẽ phải cân nhắc việc đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát. Với thực trạng hiện nay, khi lãi suất đang ở mức thấp, hạ thêm lãi suất có thể không mang lại nhiều lợi ích về tăng trưởng, nhưng có thể gây bất ổn về kinh tế vĩ mô trong tương lai.

Thứ tư, hiện nay, tỷ lệ cung tiền/GDP đang ở mức khá cao, khoảng trên 160%. Tỷ lệ này hàm ý rằng một lượng tiền khá lớn đã được bơm vào nền kinh tế thông qua vay nợ. Nói cách khác, các doanh nghiệp đang nợ khu vực ngân hàng một khoản tiền lớn gấp 1,6 lần GDP, tức là gánh nặng nợ tương đối lớn. Bởi vậy, nguy cơ nợ xấu có thể phát sinh là không hề nhỏ, nguy cơ nợ xấu gia tăng trong thời gian tới do Covid-19 đang hiện hữu.

Thứ năm, khi bơm tiền ra nền kinh tế để hỗ trợ các doanh nghiệp, NHNN cần tính đến nguyên nhân cốt lõi dẫn đến sự suy giảm tăng trưởng GDP hiện nay. Trên thực tế, nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm kinh tế thời gian qua không phải do nền kinh tế thiếu tiền hoặc do lãi suất cao, mà do dịch bệnh Covid-19 khiến cho các mối quan hệ kinh tế bị gián đoạn, khi các nước đóng cửa biên giới và thực hiện giãn cách xã hội. Trong bối cảnh đó, việc bơm thêm tiền với lãi suất thấp không có nhiều ý nghĩa, bởi các doanh nghiệp không có nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh do không thể bán được hàng hóa và dịch vụ. Chẳng hạn, do thiếu khách quốc tế, các doanh nghiệp lữ hành, các nhà hàng, khách sạn, các hãng hàng không, công ty vận tải sẽ không thể hoạt động hết công suất cho dù có giảm giá mạnh, chưa nói đến việc vay thêm vốn để mở rộng kinh doanh. Tương tự, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng không bán được hàng nếu như các đối tác nước ngoài không ký hợp đồng.

Qua các lập luận trên, có thể nhận định rằng, trong bối cảnh hiện nay, việc bơm thêm tiền vào nền kinh tế không phải là biện pháp hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng do khả năng hấp thụ vốn kém của các doanh nghiệp khi không có đơn hàng. Để thúc đẩy tăng trưởng, cần có chính sách tài khóa mở rộng theo hướng tăng chi tiêu công cho đầu tư, đặc biệt là cho an sinh xã hội để thúc đẩy nhu cầu trong nước. Đối với cầu ngoài nước, cần nghiên cứu mở cửa biên giới trở lại đối với các nước một cách thận trọng, bởi nếu không có đơn hàng hay khách du lịch, nhiều doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại do sự hỗ trợ của nhà nước luôn có hạn và không thể kéo dài.

Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn hiện nay, việc hạ thêm lãi suất có thể là cần thiết đối với các khoản vay cũ nhằm giảm chi phí trả nợ cho doanh nghiệp. Mặc dù vậy, giải pháp này cũng khó thực hiện do sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTM, trừ khi Chính phủ thực hiện bù lãi suất.

3. Kết luận

Trong bối cảnh nền kinh tế bị suy giảm do các quan hệ kinh tế bị gián đoạn bởi Covid-19, việc bơm thêm tiền vào nền kinh tế sẽ không đem lại hiệu quả cao. Thay vào đó, chính sách tài khóa cần đóng vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ tổng cầu thông qua đầu tư công và chi tiêu cho an sinh xã hội. Bên cạnh đó, cũng cần mở cửa biên giới trở lại một cách thận trọng để tăng nhu cầu từ bên ngoài. Về chính sách tiền tệ, NHNN có thể phối hợp với Bộ Tài chính trong việc hỗ trợ lãi suất, nhằm giảm chi phí cho các khoản vay cũ của doanh nghiệp.

¹Thông cáo báo chí của NHNN tại họp báo thông tin Kết quả điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng 9 tháng đầu năm 2020, định hướng những tháng cuối năm 2020, ngày 22/9/2020.

Tài liệu tham khảo:

1. Quyết định 418/QĐ-NHNN, Quyết định 423/QĐ-NHNN.

2. Quyết định 918/QĐ-NHNN, Quyết định 920/QĐ-NHNN.

3. Thông tư số 01/2020/TT-NHNN.

4. Tổng cục Thống kê. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2020.

5. https://data.worldbank.org/


PGS., TS. Nguyễn Trọng Cơ

Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2020

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng