Chứng khoán hóa: Kinh nghiệm triển khai trên thế giới và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Thị trường tài chính
Trong bối cảnh hội nhập tài chính, Việt Nam cũng cần có những phương thức tài trợ mới nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ vốn. Chứng khoán hóa có thể sẽ trở thành một giải pháp tiềm năng nhằm tạo ra kênh dẫn vốn mới cho nền kinh tế, đồng thời góp phần hỗ trợ quản lý rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
aa

Tóm tắt: Trong bối cảnh hội nhập tài chính, Việt Nam cũng cần có những phương thức tài trợ mới nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ vốn. Chứng khoán hóa có thể sẽ trở thành một giải pháp tiềm năng nhằm tạo ra kênh dẫn vốn mới cho nền kinh tế, đồng thời góp phần hỗ trợ quản lý rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, việc triển khai, áp dụng chứng khoán hóa cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Bài viết này nghiên cứu tổng quan về chứng khoán hóa và kinh nghiệm triển khai chứng khoán hóa tại hai nước điển hình trên thế giới là Trung Quốc và Hoa Kỳ, từ đó đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam.

Từ khóa: Chứng khoán hóa, quản lý rủi ro, ngân hàng

SECURITIZATION: GLOBAL IMPLEMENTATION EXPERIENCE
AND SOME RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM


Abstract: In the context of financial integration, Vietnam needs new financing methods to improve capital allocation efficiency. Securitization can become a potential solution to create new capital channels for the economy while also supporting risk management for the banking system. However, the implementation and application of securitization have some potential risks. This article provides an overview of securitization, the experience of implementing securitization in two typical countries, including China and the United States, thereby making some recommendations for Vietnam.

Keywords: Securitization, risk management, banking.

1. Tổng quan về chứng khoán hóa

Theo Nghị viện châu Âu, chứng khoán hóa là một kỹ thuật tài chính mà theo đó các tài sản sinh lời có tính đồng nhất cao nhưng thanh khoản thấp được bán cho một bên thứ ba và được bên thứ ba sử dụng làm tài sản thế chấp để phát hành chứng khoán trên thị trường tài chính. Theo Hiệp hội Chứng khoán châu Á và Thị trường tài chính - Asia Securities Industry and Financial Markets Association (2015), chứng khoán hóa nên được coi là một tập hợp các kỹ thuật hoặc công cụ chứ không phải là một sản phẩm cụ thể. Viện CFA (2015) mô tả chứng khoán hóa là quá trình mua tài sản, đặt chúng vào một nhóm và sau đó, bán chứng khoán đại diện cho quyền sở hữu của nhóm. Mặc dù có nhiều định nghĩa về chứng khoán hóa nhưng tựu chung lại có thể hiểu, chứng khoán hóa là quá trình, kỹ thuật gom các tài sản có nhiều điểm tương đồng để phát hành chứng khoán (lấy tài sản đó làm đảm bảo) thông qua một bên thứ ba.



Chứng khoán hóa có thể sẽ trở thành một giải pháp tiềm năng nhằm tạo ra kênh dẫn vốn mới cho nền kinh tế, đồng thời góp phần hỗ trợ quản lý rủi ro cho hệ thống ngân hàng (Nguồn ảnh: Internet)


Về nguyên tắc, bất kỳ loại tài sản nào có dòng tiền ổn định đều có thể được chứng khoán hóa (Jobst, 2008). Điều này có nghĩa là các tài sản chứng khoán hóa có thể là các khoản vay thế chấp, khoản vay thương mại hoặc tiêu dùng, khoản vay mua ô tô, khoản vay doanh nghiệp, khoản phải thu thế chấp nhà ở, khoản phải thu thẻ tín dụng,... Nhìn một cách khái quát, một giao dịch chứng khoán hóa bắt đầu bằng việc đơn vị khởi tạo cung cấp khoản vay cho khách hàng. Sau đó, khoản vay được bán cho bên thứ ba và bên thứ ba sử dụng các khoản vay này làm tài sản thế chấp để phát hành chứng khoán. Định kỳ người vay thanh toán gốc và lãi (thông qua tổ chức phục vụ) cho nhà đầu tư.


Hình 1: Quy trình đơn giản của một giao dịch chứng khoán hóa


2. Kinh nghiệm quốc tế trong triển khai chứng khoán hóa

Tại Trung Quốc

Chứng khoán hóa lần đầu tiên được giới thiệu ở Trung Quốc thông qua một chương trình thí điểm vào năm 2005 và bị đình chỉ vào năm 2008 do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Vào tháng 6/2012, Bộ Tài chính, Ủy ban Quản lý và Giám sát ngân hàng Trung Quốc (CBRC) và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã ban hành thông báo khởi động lại chương trình thí điểm chứng khoán hóa trị giá 50 tỉ Nhân dân tệ (7,9 tỉ USD). Vào tháng 8/2013, Chính phủ Trung Quốc đã mở rộng quy mô chứng khoán hóa tài sản bằng cách triển khai thêm một chương trình thí điểm trị giá 200 tỉ Nhân dân tệ (31,6 tỉ USD) (Ngwu, 2016). Loại tài sản chính để chứng khoán hóa ở Trung Quốc là các khoản vay nợ. Ở Trung Quốc, các sản phẩm chứng khoán hóa phải có cấu trúc đơn giản, rõ ràng (Ngwu, 2016).

Hiện tại, không có luật cụ thể nào điều chỉnh hoạt động chứng khoán hóa ở Trung Quốc (Ngwu, 2016). Thay vào đó, có hai chương trình chứng khoán hóa chính do Chính phủ Trung Quốc tài trợ: Chương trình chứng khoán hóa tài sản tín dụng (Credit Asset Securitization Scheme) và Chương trình quản lý đặc biệt tài sản doanh nghiệp (Corporate Asset Special Management Scheme). Chương trình chứng khoán hóa tài sản tín dụng được đồng quản lý bởi PBoC và CBRC. Chương trình quản lý đặc biệt tài sản doanh nghiệp được quản lý bởi Ủy ban Điều tiết chứng khoán Trung Quốc (CSRC) (Chen & Liu, 2015). CBRC chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động chứng khoán hóa của các tổ chức tài chính (như ngân hàng thương mại và các công ty tài chính) và CSRC chịu trách nhiệm về các tổ chức phi tài chính (như công ty cho thuê độc lập, nền tảng thương mại điện tử và nhà cung cấp dịch vụ viễn thông). Tùy thuộc vào loại tổ chức và cơ quan quản lý, có hai loại sản phẩm chứng khoán hóa: (i) Chứng khoán hóa với cấu trúc ủy thác cho mục đích đặc biệt (SPT) và (ii) Chứng khoán hóa với cấu trúc kế hoạch quản lý tài sản (SAMP). Các tổ chức tài chính do CBRC quản lý áp dụng cấu trúc SPT và các tổ chức phi tài chính do CSRC giám sát áp dụng cấu trúc SAMP (Ngwu, 2016).

Cấu trúc SPT liên quan đến việc chuyển tài sản sang một quỹ tín thác có mục đích đặc biệt, điều này sẽ tạo ra một nhóm tài sản hỗ trợ cho việc phát hành chứng khoán đảm bảo bằng tài sản. Quỹ tín thác có mục đích đặc biệt này là một tổ chức được tách biệt về mặt pháp lý khỏi những người khởi tạo ban đầu. Chứng khoán phát hành theo cơ cấu SPT được giao dịch trên Thị trường trái phiếu liên ngân hàng quốc gia Trung Quốc (NIBM).

Cấu trúc SAMP bao gồm một kế hoạch quản lý tài sản cụ thể được thiết lập theo quy định hành chính về kinh doanh chứng khoán hóa tài sản của các công ty chứng khoán và công ty con của các công ty quản lý quỹ do CSRC công bố năm 2013. Theo cấu trúc SAMP, tài sản được chuyển từ người khởi tạo sang một tổ chức kế hoạch quản lý tài sản cụ thể. SAMP không được tách biệt về mặt pháp lý khỏi người khởi tạo. Chứng khoán phát hành theo cấu trúc SAMP được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải/Thâm Quyến. Các nhà đầu tư chứng khoán hóa theo cấu trúc SAMP khó có thể nhận được ý kiến ​​pháp lý rõ ràng về việc mua bán thực sự (ASIFMA, 2015).

Tại Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là quốc gia có thị trường chứng khoán hóa hàng đầu trên thế giới, thường chiếm khoảng 70% - 80% tổng giá trị chứng khoán hóa phát hành trên thế giới. Thị trường chứng khoán hóa Hoa Kỳ chịu tác động tiêu cực bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 - 2009. Khối lượng chứng khoán hóa phát hành năm 2008 giảm trên 50% so với thời kỳ phát triển mạnh mẽ trước đó. Thị trường chứng khoán hóa mặc dù hồi phục vào những năm sau đó, nhưng chỉ đến năm 2020, giá trị chứng khoán hóa phát hành mới vượt mức trước khủng hoảng, đạt trên 4.000 tỉ USD. Nhiều ý kiến cho rằng, khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 - 2009 bắt nguồn từ Hoa Kỳ là bắt nguồn từ sản phẩm chứng khoán hóa thế chấp bởi các khoản vay mua nhà dưới chuẩn. Các khoản vay này đến từ các khách hàng có mức tín nhiệm thấp, thu nhập không đủ khả năng thanh toán khoản vay và vốn tự có đóng góp vào khoản vay thấp. Theo đó, khi thị trường bất động sản sụt giảm, người mua nhà không có khả năng thanh toán khoản vay trong khi giá trị đảm bảo là ngôi nhà bị sụt giảm mạnh, khiến nhà đầu tư bị thua lỗ trầm trọng. Phản ứng dây chuyền đã kéo theo sự sụp đổ của thị trường tài chính Hoa Kỳ và toàn cầu giai đoạn 2008 - 2009. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách đầy đủ, cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ chứng khoán hóa các khoản vay mua nhà dưới chuẩn còn có sự đóng góp của nhiều yếu tố khác như: (i) Quá trình chứng khoán hóa tạo ra các sản phẩm chứng khoán hóa phức tạp, tính pháp lý không rõ ràng. Điều này gây ra thiệt hại cho nhà đầu tư khi rủi ro xảy ra; (ii) Chứng khoán hóa được các tổ chức định hạng xếp hạng tín nhiệm xếp hạng quá cao so với rủi ro tín dụng sẵn có của nó; (iii) Chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức, tạo ra dòng tiền lớn chảy vào các sản phẩm chứng khoán hóa.

Để hạn chế các bất cập này, cơ quan quản lý Hoa Kỳ đã đưa ra hàng loạt các giải pháp để giảm bớt rủi ro đối với các sản phẩm chứng khoán hóa. Cụ thể, Luật Bảo vệ nhà đầu tư và cải tổ Wall Street Dodd Frank (the Dodd - Frank Wall Street Reform and Consumer Protection Act - the Dodd Frank Act) được ban hành tháng 7/2010 được coi là cải tổ pháp lý tổng thể và mạnh mẽ nhất đối thị trường chứng khoán hóa Hoa Kỳ. Luật Dodd Frank đưa ra khung cơ bản cho những thay đổi của thị trường chứng khoán hóa, sau đó, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ chi tiết hóa để triển khai trên thực tế. Những giải pháp để giảm bớt rủi ro bao gồm tăng cường minh bạch thông tin, gia tăng kết nối lợi ích giữa các chủ thể tham gia chứng khoán hóa, giảm bớt sự phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng.

3. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Sau khi nghiên cứu tổng quan về chứng khoán hóa, kinh nghiệm triển khai tại Trung Quốc và Hoa Kỳ, tác giả bài viết xin đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam như sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ chế thử nghiệm cho các đợt phát hành chứng khoán hóa và từng bước hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán hóa. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, thị trường chứng khoán hóa bùng nổ mạnh mẽ từ sau các đợt phát hành chứng khoán hóa thí điểm. Theo đó, Việt Nam cần mạnh dạn vừa thí điểm, thăm dò nhu cầu thị trường, song song với đó là hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán hóa.

Thứ hai, tham khảo khung pháp lý của Hoa Kỳ để xây dựng thị trường chứng khoán hóa chặt chẽ, giảm thiểu rủi ro. Như đã đề cập, đây là quốc gia có thị trường chứng khoán hóa phát triển, đã thực hiện nhiều cải tổ cho chứng khoán hóa sau bài học lớn từ khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 - 2009. Các bài học quý báu về tăng cường minh bạch thông tin, gia tăng kết nối lợi ích giữa các chủ thể tham gia chứng khoán hóa, giảm bớt sự phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng… cần phải được xem xét để có thể áp dụng tại Việt Nam.

Thứ ba, xem xét phương án xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua chứng khoán hóa. Mặc dù tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhưng chứng khoán hóa nợ xấu vẫn được coi là một trong những giải pháp được áp dụng tại Trung Quốc. Đây được coi là xu thế tại nhiều nước trên thế giới và bài toán đặt ra là cần hoàn thiện khung pháp lý để cho giải pháp này có tính khả thi hơn và bớt rủi ro hơn tại Việt Nam, trước mắt thí điểm áp dụng cho nợ xấu của các ngân hàng thương mại nhà nước (tương tự như Trung Quốc).

Thứ tư, Việt Nam cần nhất quán, thống nhất phát triển một thị trường chứng khoán hóa duy nhất. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, các phân ngách thị trường rất khác nhau về quy định pháp lý, cơ quan quản lý, cấu trúc thị trường… theo đó, việc kiểm soát rủi ro sẽ khó khăn hơn. Do vậy, cần phải có khung pháp lý thống nhất cho chứng khoán hóa để tạo ra một thị trường chứng khoán hóa lớn hơn, sâu hơn và thanh khoản cao hơn.

Thứ năm, xem xét hình thành cơ quan cho vay tái thế chấp nhà ở quốc gia. Kinh nghiệm nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ cho thấy, chứng khoán hóa được đảm bảo bằng cho vay nhà ở thường là khởi điểm cho thị trường chứng khoán hóa và hiện chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng khối lượng chứng khoán hóa phát hành/lưu hành trên thị trường. Vì vậy, cần hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường này hình thành và phát triển.

Cuối cùng, tăng cường quản lý rủi ro đạo đức đối với các giao dịch chứng khoán hóa, đặc biệt đối với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Điều này có thể thực hiện thông qua tăng cường giám sát hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, yêu cầu chặt chẽ về công bố thông tin đối với các đợt định hạng tín nhiệm, hướng tới giải pháp nhà đầu tư chi trả phí định hạng tín nhiệm. Ngoài ra, nhà đầu tư cần tăng cường năng lực thẩm định khi đầu tư vào các sản phẩm chứng khoán hóa, thay vì phụ thuộc vào kết quả định hạng tín nhiệm. Đối với nhà đầu tư là các ngân hàng thương mại thì cần sử dụng xếp hạng tín dụng nội bộ, giảm sự phụ thuộc xếp hạng rủi ro đối với chứng khoán hóa dựa vào kết quả định hạng tín nhiệm.

Tài liệu tham khảo:

1. ASIFMA- Asia Securities Industry and Financial Markets Association (2015), Securitization in Asia 2015 (Report).
2. CFA Institute (2015), CFA Level I Volume 5 Equity and Fixed Income. Wiley Global Finance.
3. Chen J.H. & Liu H.P. (2015), Securitization in China – overview and issues: Can China develop a viable cross-border securitization market.
4. Jobst A. (2008), Back to basic: What is securitization?, Finance and Development - International Monetary Fund.
5. International Finance Corporation (2004), Securitization: Key Legal and Regulatory Issues.
6. Ngwu F.N. (2016), Regulation of Securitization in China: Learning from the US Experience, Research in International Business and Finance.
7. Securities Industry and Financial Markets Association (2015), U.S Securitization year in review 2015.
8. Wang S. (2013), Developments in the Chinese securitization market, China-EU Law Journal, 3, pp. 275-287.

ThS. Ngô Hồng Hạnh
Trường Đại học Phenikaa
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Những thách thức về biến đổi khí hậu và hàm ý chính sách đối với nợ công

Những thách thức về biến đổi khí hậu và hàm ý chính sách đối với nợ công

Biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu, đòi hỏi đầu tư tài chính lớn, đặc biệt từ ngân sách nhà nước và sự hỗ trợ của các nước phát triển. Việc cân bằng giữa mục tiêu khí hậu và tính bền vững nợ công là vấn đề phức tạp. Bài viết phân tích những hạn chế tài chính mà các nhà hoạch định chính sách gặp phải và đề xuất một số hàm ý chính sách.
Tận dụng cơ hội từ thuế tối thiểu toàn cầu: Góc nhìn từ thực thi chính sách pháp luật

Tận dụng cơ hội từ thuế tối thiểu toàn cầu: Góc nhìn từ thực thi chính sách pháp luật

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của các tập đoàn đa quốc gia, việc thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu đã trở thành một xu hướng tất yếu nhằm ngăn chặn tình trạng trốn thuế và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đối với Việt Nam, chính sách thuế tối thiểu toàn cầu không chỉ mang lại cơ hội mà còn đặt ra những thách thức đáng kể. Để tối ưu hóa những cơ hội và vượt qua những thách thức này, Việt Nam cần triển khai hiệu quả các biện pháp pháp lý và chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế và đầu tư vào một hệ thống quản lý thuế hiện đại.
Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược

Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược

Các ngân hàng tại Trung tâm tài chính quốc tế sẽ phải tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế với những yêu cầu về tính linh hoạt và khả năng đáp ứng cao, đặc biệt là trong môi trường tài chính toàn cầu hóa như hiện nay.
Việt Nam hướng đến xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tầm cỡ toàn cầu

Việt Nam hướng đến xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tầm cỡ toàn cầu

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng gắn kết và dòng vốn quốc tế liên tục dịch chuyển, việc phát triển trung tâm tài chính quốc tế (IFC) không chỉ là tham vọng chiến lược mà còn là cơ hội để Việt Nam tái định vị vị thế trên bản đồ tài chính khu vực. Đây là khẳng định của các chuyên gia tại sự kiện "Kinh nghiệm quốc tế và vai trò hệ thống ngân hàng trong trung tâm tài chính" do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 16/4/2025.
Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nhiều quốc gia đã chủ động phát triển các trung tâm tài chính như một mũi nhọn chiến lược thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập. Với độ mở kinh tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam liệu đã hội tụ đủ các điều kiện để phát triển các trung tâm tài chính. Sự ra đời của Nghị quyết 42/NQ-CP của Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến trung tâm tài chính tại Việt Nam chính là bước đi đầu tiên trong hành trình đó. Nhằm làm rõ thêm tiềm năng, điều kiện, thách thức cũng như những đề xuất cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, Thời báo Ngân hàng đã phỏng vấn TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính.
Tài chính xanh trong phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Tài chính xanh trong phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Mục tiêu chính của bài viết là phân tích vai trò của tài chính xanh trong thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Bài viết tập trung đánh giá các cơ chế tài chính hiện có, làm rõ mối quan hệ giữa tài chính xanh và năng lượng tái tạo, từ đó đề xuất chính sách cần thiết để tối ưu hóa tác động của tài chính xanh trong lĩnh vực này.
Kết nối tài chính xanh với thị trường carbon: Hướng đi “xanh” cho nền kinh tế

Kết nối tài chính xanh với thị trường carbon: Hướng đi “xanh” cho nền kinh tế

Mô hình kết nối tài chính xanh với thị trường carbon là huy động nguồn vốn xanh cho các dự án, chương trình, hoạt động giảm thiểu phát thải khí nhà kính đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bền vững. Ngoài ra, mô hình này còn thúc đẩy sự phát triển của các công cụ tài chính xanh trên cơ sở thị trường carbon.
Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Thế giới hiện nay đang trải qua một giai đoạn chuyển đổi sâu sắc, với những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Việt Nam cũng đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tiếp nối các thành tựu của thời kỳ độc lập và đổi mới. Trong bối cảnh này, phát triển thị trường tài chính lành mạnh, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Điều này không chỉ hỗ trợ tăng trưởng bền vững mà còn góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc