Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành Ngân hàng Việt Nam

Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam
Ngày 6/5/1951, tại Lán Hang Bòng, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Sự kiện trọng đại này đã mở đầu...
aa

Ngày 6/5/1951, tại Lán Hang Bòng, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Sự kiện trọng đại này đã mở đầu cho quá trình phát triển nền tiền tệ độc lập và hoạt động của Ngân hàng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. 70 năm qua, cán bộ ngành Ngân hàng luôn ghi nhớ những lời dạy của Người và tự hào vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng văn hóa quan trọng của nền tiền tệ Việt Nam, của ngành Ngân hàng Việt Nam.



Bác Hồ thăm Quỹ Tiết kiệm xã hội chủ nghĩa tại Nhà máy dệt Nam Định năm 1960

Những lời dạy của Bác đối với cán bộ ngân hàng

Lúc sinh thời, dù bận trăm công nghìn việc, nhưng Bác Hồ vẫn luôn dành sự quan tâm đến hoạt động ngân hàng, đặc biệt Người luôn dặn dò cán bộ ngân hàng phải nâng cao đạo đức cách mạng và hết lòng phục vụ nhân dân.

Trong những cuộc họp hay trong những lần gặp mặt cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn nhiều điều đối với cán bộ nói chung, cán bộ ngân hàng nói riêng, mà mục đích sâu xa nhất vẫn là: Mọi hoạt động phải vì dân, phải nâng cao đạo đức cách mạng để phục vụ nhân dân và làm giàu cho đất nước.

Ngay trong những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945), Bác đã chỉ rõ “trong lúc các giới khác ra sức hoạt động để giành lấy nền độc lập cho nước nhà, thì giới công thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”1. Người yêu cầu mọi chính sách về kinh tế, tài chính của Chính phủ đều phải nhằm thực hiện lợi ích của nhân dân, lợi ích của kháng chiến, kiến quốc. Như vậy, Bác đã xác định rõ nhiệm vụ xây dựng kinh tế - tài chính là nhiệm vụ quan trọng của đất nước.

Nhưng để xây dựng nền kinh tế giàu mạnh, Bác luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải nêu gương cần, kiệm, liêm, chính. Người nói: Khi có việc đáng làm, việc ích nước lợi dân, lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù hao tốn bao nhiêu công, tiêu hao bao nhiêu tiền của cũng sẵn sàng, nhưng khi không cần tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, không được tiêu. Tư tưởng, quan điểm của Bác là: “Làm ra nhiều, chi dùng ít. Không cần thì không chi dùng. Đó là tất cả chính sách kinh tế, tài chính của ta”2.

Trong Thư gửi Hội nghị cán bộ tài chính, ngày 20/02/1952, Bác đã đề cập rất cụ thể: “Cán bộ kinh tế tài chính phụ trách nhiều tiền của, mà chưa hoàn toàn thông thạo việc quản lý tiền của ấy. Cho nên chúng ta cần phải ra sức học tập quản lý tài sản quốc gia mà ngành mình phụ trách. Đồng thời phải trau dồi đạo đức cách mệnh: chí công vô tư, cần kiệm liêm chính. Một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến. Dùng cách thật thà tự phê bình và phê bình, để tẩy trừ những thói tham ô lãng phí và bệnh quan liêu, để cùng nhau tiến bộ.

Chiến sĩ ta liên tiếp thắng giặc ngoài mặt trận. Tôi mong rằng: Các chú là chiến sĩ kinh tế tài chính ở hậu phương, cũng cố gắng thi đua sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, vượt mọi khó khǎn, làm cho mặt trận kinh tế - tài chính của ta cũng thắng lợi như mặt trận quân sự”.

Như vậy, bên cạnh việc cần thiết nâng cao trình độ chuyên môn, Bác đã rất chú trọng đến yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ tài chính - ngân hàng là phải “chí công vô tư, cần, kiệm, liêm, chính” và “tẩy trừ những thói tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu”, vì cán bộ ngân hàng phụ trách nhiều tiền của. Bác đã đề cập đến những khía cạnh hết sức cụ thể như phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn, năng lực quản lý, điều hành… Có thể hiểu phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức thuộc về phạm trù “đức”, còn trình độ và năng lực chuyên môn thuộc về phạm trù “tài”. Song việc tạm tách như vậy chỉ mang tính chất tương đối, bởi ngay trong từng việc cụ thể, đức và tài bao chứa ở trong nhau. Trong một chừng mực nào đó, giữa hai phạm trù đức và tài trong đạo đức của người cán bộ luôn cần sự thể hiện thống nhất như một chỉnh thể. Việc đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có đức, có tài trong thực thi công vụ là Bác muốn đề cập tới những tiêu chuẩn chung nhất, quan trọng nhất của người cán bộ ngân hàng, thể hiện qua những hành vi cụ thể trong quá trình phục vụ nhân dân.

Tháng 01/1965, trong thư gửi Hội nghị cán bộ ngân hàng, Bác cũng đã căn dặn: “Quản lý tiền bạc là một công tác rất quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cán bộ ngân hàng là người có trách nhiệm giữ tiền cho nhà nước và nhân dân, phải học tập cách quản lý tiền cho tốt, đừng để lãng phí, mất mát. Một đồng vốn bỏ ra phải bảo đảm tăng thêm của cải cho xã hội, phải luân chuyển nhanh, đừng để đọng. Phải tích cực huy động tiền nhàn rỗi để bỏ vào sản xuất”. “Cán bộ ngân hàng phải luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thấu suốt hơn nữa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sâu học tập lý luận và nghiệp vụ, cải tiến lề lối làm việc, để phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân được nhiều và tốt hơn”.

Trong những lời căn dặn của Bác, văn hóa, đạo đức đối với người cán bộ ngân hàng luôn được đặt lên hàng đầu. Vì cán bộ ngân hàng giữ tiền của cho Nhà nước, cho nhân dân, nên phải nêu cao đạo đức cách mạng, phải trong sáng, liêm chính…, song song đó cũng phải có chuyên môn, nghiệp vụ sâu để quản lý được tiền của cho Nhà nước, cho nhân dân, để không bị thất thoát, lãng phí, đồng thời phải tăng thêm của cải cho xã hội. Đó vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của cán bộ ngân hàng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - biểu tượng văn hóa quan trọng của nền tiền tệ quốc gia

Đối với nền tiền tệ Việt Nam, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đóng vai trò vô cùng quan trọng, trở thành biểu tượng của một nền tiền tệ độc lập, tự chủ của Nhà nước Việt Nam mới.

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chính phủ Cách mạng đã khẩn trương xây dựng một nền tiền tệ độc lập, với việc phát hành tiền Việt Nam trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, nền tiền tệ Việt Nam non trẻ gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là sự phá hoại của thực dân Pháp và quân đội Tưởng Giới Thạch. Vì vậy, trong giai đoạn đầu (1945 - 1954), tiền Việt Nam chưa được sử dụng thống nhất ở cả ba miền đất nước, mà phải hình thành ba khu vực tiền tệ riêng biệt là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Mặc dù phải lưu hành ba loại giấy bạc khác nhau ở ba miền, nhưng các tờ giấy bạc Việt Nam đều in chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và được nhân dân tin tưởng gọi là “Giấy bạc Cụ Hồ”. Trong giai đoạn khó khăn ấy, nhiều tờ giấy bạc trong lưu thông bị rách nát nhưng dân chúng vẫn tiêu dùng và truyền nhau “còn một sợi râu của Cụ Hồ là còn tiêu được”3. Như vậy, có thể thấy, giá trị biểu tượng to lớn của chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nền tiền tệ Việt Nam, biểu trưng cho ý nguyện thiêng liêng nhất của quốc gia là độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Trong giai đoạn cam go nhất của đất nước nói chung và ngành Ngân hàng Việt Nam nói riêng, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của dân tộc, của nền tiền tệ Việt Nam. Hình ảnh Bác là biểu tượng của sự gắn kết ba miền, là một “bảo chứng” quan trọng cho giấy bạc Việt Nam trong điều kiện khó khăn cả về in ấn, phát hành và bảo quản tiền trong suốt giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước.

Trên mặt trận quân sự, để thống nhất lãnh thổ thì có những anh bộ đội Cụ Hồ; còn trên mặt trận tiền tệ thì có giấy bạc Cụ Hồ, với những chiến sĩ kinh - tài đấu tranh thống nhất nền tài chính quốc gia. Trong giai đoạn chiến tranh đầy cam go ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn rất quan tâm đến việc xây dựng và thống nhất nền kinh tế - tài chính độc lập, mà phương tiện thể hiện chính là nền tiền tệ cách mạng. Người đã dặn dò những cán bộ ngân hàng “Các chú là chiến sĩ kinh tế - tài chính ở hậu phương, cũng cố gắng thi đua sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, vượt mọi khó khǎn, làm cho mặt trận kinh tế - tài chính của ta cũng thắng lợi như mặt trận quân sự”4.

Tiền Việt Nam, từ bộ tiền đầu tiên đến bộ tiền hiện hành, chân dung duy nhất trên các tờ tiền chính là chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là một sự khác biệt lớn so với tiền của nhiều quốc gia trên thế giới. Các nước như Mỹ, Anh, Thụy Sĩ, Úc, Hàn Quốc, Nhật, Trung Quốc… sử dụng nhiều chân dung của những nhân vật nổi tiếng, có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của lịch sử đất nước. Với tính chất “duy nhất” của chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy Việt Nam, có thể thấy, hình ảnh Bác trên tiền giấy không chỉ là biểu tượng của sự thống nhất tuyệt đối về mặt ý chí của toàn Đảng, toàn dân, mà còn là khát vọng về sự thống nhất lãnh thổ, sự thống nhất của nền tiền tệ độc lập, tự chủ, đồng thời thể hiện tình cảm và sự kính trọng của nhân dân đối với Bác.

Trong giai đoạn kháng chiến kiến quốc, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở hai miền Nam - Bắc rất khó khăn và biến động phức tạp, song nền tiền tệ Việt Nam vẫn đảm bảo tự chủ và vô cùng linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa cung cấp nhân lực, vật lực cho chiến trường miền Nam. Trong giai đoạn khó khăn ấy, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy là một biểu trưng cao đẹp được lưu hành rộng rãi, góp phần làm tăng thêm ý chí và sức mạnh tinh thần để cán bộ ngân hàng cùng nhân dân cả nước vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cán bộ ngân hàng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Trong 70 năm xây dựng và phát triển, ngành Ngân hàng Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, đóng góp nhân lực, vật lực cho chiến trường miền Nam và góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. Rất nhiều cán bộ ngân hàng đã được cử vào miền Nam tham gia chiến đấu và làm nhiệm vụ ngân tín trong giai đoạn kháng chiến kiến quốc. Đến giai đoạn đất nước thống nhất hai miền Nam - Bắc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và hội nhập quốc tế, cán bộ ngân hàng lại tiếp tục nêu cao tinh thần lao động hăng say, khắc phục khó khăn, cống hiến trí lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Với đặc thù là một ngành nghề hoạt động liên quan trực tiếp đến tiền tệ, nên vấn đề đạo đức nghề nghiệp luôn được đặt lên hàng đầu trong việc thực thi nhiệm vụ. Thấm nhuần lời dạy của Bác “cán bộ là gốc của mọi công việc”, hơn nữa “các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”5, cho nên việc nêu gương trong ngành Ngân hàng luôn được các cấp chú trọng và thực hiện nghiêm túc, để cán bộ, công chức, viên chức và người lao động học hỏi, tự “sửa mình” và rèn luyện đạo đức, nâng cao văn hóa nghề nghiệp. Từ những đức tính, phẩm chất đạo đức mà Bác Hồ đã căn dặn cán bộ ngân hàng, trong những năm qua, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong ngành Ngân hàng đã cụ thể hóa thành những phẩm chất đạo đức, những đức tính cần thiết đối với từng vị trí công tác, trong từng giai đoạn cụ thể, để nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, phục vụ nhân dân.

Hiện nay, bên cạnh nhiều cơ hội, cán bộ ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới, như sự phát triển mạnh mẽ của ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực tài chính, thị trường lao động mở rộng phạm vi ra toàn thế giới, trình độ lao động đòi hỏi ngày càng cao, hay những mặt trái của nền kinh tế thị trường có những tác động tiêu cực đến đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng… Nên cán bộ ngân hàng cần phải nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, trung thực, năng động, sáng tạo và trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ để vừa phát triển cơ quan, đơn vị, đảm bảo quyền lợi của người lao động, vừa phải đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ, phục vụ hiệu quả và đảm bảo quyền lợi của khách hàng.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp và khó lường, ngành Ngân hàng Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ ngân hàng: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” vẫn còn nguyên giá trị và càng quý giá. Các thế hệ cán bộ ngân hàng vẫn luôn ghi nhớ lời Bác dạy và lấy làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động, để tu dưỡng, học tập và rèn luyện đạo đức, góp phần xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong muốn của Người.


1Thư của Hồ Chủ tịch gửi giới công thương, ngày 13/10/1945.


2Bác Hồ nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngày 18/01/1949.

3 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1991), 40 mùa sen nở, Hà Nội, tr.286.

4Thư của Hồ Chủ tịch gửi Hội nghị cán bộ tài chính, ngày 20/02/1952.

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.284.


Phạm Liên

Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2021

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Ở trong nước, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng tăng trưởng kinh tế trên đà phục hồi, các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024.
Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank là ngân hàng tiên phong dành nguốn vốn 50.000 tỉ đồng để triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến,...
Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; ...
Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.
Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)... Trụ sở NHNN...
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập (6/5/1951 - 6/5/2021). Trong 70 năm xây dựng và phát triển, toàn Ngành luôn nỗ lực, vượt qua nhiều gian nan, thử thách, đạt được nhiều thành...
35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

Quá trình cải cách khu vực ngân hàng đi liền với sự đổi mới thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2021, ngành Ngân hàng...
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô