Bong bóng bất động sản ở Nhật Bản những năm 1980 và 1990 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Thị trường tài chính
Hiện nay, bất động sản nói chung ở Việt Nam đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm từ Chính phủ, doanh nghiệp tới người dân. Trong những năm 1980 và 1990, ở Nhật Bản đã xảy ra tình trạng bong bóng bất động sản. Để xử lí tình trạng đó, Chính phủ Nhật Bản cần tương đối nhiều thời gian và nguồn lực tài chính để giải quyết hậu quả. Phóng viên Tạp chí Ngân hàng đã có cuộc trao đổi với ông Keita Matsunami - Tổng Giám đốc Ngân hàng Mizuho tại Việt Nam về những bài học từ bong bóng bất động sản ở Nhật Bản những năm 1980 và 1990 cũng như ý nghĩa đối với Việt Nam.
aa

Ngân hàng Mizuho là một trong những ngân hàng nước ngoài đầu tiên có mặt tại Việt Nam với việc thành lập Chi nhánh Hà Nội và Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh lần lượt vào năm 1996 và năm 2006. Ngoài các giải pháp tài chính toàn diện cho các tổ chức và khách hàng trong và ngoài nước, Mizuho còn duy trì mối quan hệ đối tác chiến lược với Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), một trong những ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam thông qua tỉ lệ sở hữu 15% vốn điều lệ. Sau 26 năm, Mizuho đã đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam và đóng vai trò cầu nối quan trọng để thực hiện các sáng kiến ​​giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản.

Hiện nay, bất động sản nói chung ở Việt Nam đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm từ Chính phủ, doanh nghiệp tới người dân. Trong những năm 1980 và 1990, ở Nhật Bản đã xảy ra tình trạng bong bóng bất động sản. Để xử lí tình trạng đó, Chính phủ Nhật Bản cần tương đối nhiều thời gian và nguồn lực tài chính để giải quyết hậu quả. Phóng viên Tạp chí Ngân hàng đã có cuộc trao đổi với ông Keita Matsunami - Tổng Giám đốc Ngân hàng Mizuho tại Việt Nam về những bài học từ bong bóng bất động sản ở Nhật Bản những năm 1980 và 1990 cũng như ý nghĩa đối với Việt Nam.

Ông Keita Matsunami - Tổng Giám đốc Ngân hàng Mizuho tại Việt Nam.

Phóng viên: Thưa ông, ông nhận định thế nào về tình hình bất động sản ở Việt Nam hiện nay?

Ông Keita Matsunami:
Hiện nay, bất động sản nói chung ở Việt Nam đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm từ Chính phủ, doanh nghiệp tới người dân. Tôi bắt đầu làm việc tại Mizuho Bank, Ltd. năm 1991, vào thời kì đỉnh điểm bong bóng bất động sản ở Nhật Bản và sau đó, chứng kiến ​​bong bóng vỡ. Vào thời điểm đó, chưa có “khái niệm bong bóng”; do đó, không có nhận thức rằng đó là bong bóng. Ngoài ra, sau khi bong bóng bất động sản vỡ, hầu hết mọi người đều không nhận ra rằng bong bóng đã vỡ trong một thời gian.

Tuy nhiên, cùng thời gian này, ở Hoa Kỳ và Trung Quốc, có vẻ như Chính phủ hai nước này đang hành động thận trọng để không mắc phải sai lầm tương tự. Họ phân tích kĩ lưỡng các sự kiện ở Nhật Bản, coi đó như một bài học để hạn chế xuất hiện các bong bóng nhỏ trước khi các bong bóng đó vỡ.

Theo tôi, tình hình bất động sản ở Việt Nam hiện nay không phải là bong bóng. Một thực tế rõ ràng là, nhu cầu thực về nhà ở của người dân, đặc biệt là nhu cầu nhà ở cho người lao động thu nhập thấp vẫn rất lớn. Đó là một điểm tích cực.

Phóng viên: Ông có thể mô tả tóm lược nguyên nhân gây ra bong bóng bất động sản của Nhật Bản?

Ông Keita Matsunami: Nhìn chung, bong bóng là khi giá tài sản tăng đột biến so với các nguyên tắc cơ bản. Nói cách khác, bong bóng là khi giá tài sản tăng bất thường khi không thể giải thích được bằng những nguyên tắc cơ bản.

Các yếu tố sau đây có thể là nguyên nhân dẫn đến việc bất động sản ở Nhật Bản tăng giá vào cuối những năm 1980:

Một là, thay đổi về các nguyên tắc cơ bản: (i) Gia tăng nhu cầu về bất động sản: Kể từ đầu những năm 1980, tỉ lệ văn phòng trống đã giảm do nhu cầu thuê văn phòng tăng, đặc biệt là ở trung tâm Tokyo và giá bất động sản đã bắt đầu tăng lên; (ii) Chính sách tài khóa: Hiệp định Plaza (Plaza Accord) khiến đồng Yên tăng giá đã gây thiệt hại cho ngành xuất khẩu của Nhật Bản. Tuy nhiên, lợi nhuận doanh nghiệp được cải thiện khi Chính phủ thực hiện các biện pháp quyết liệt như thúc đẩy đầu tư công với quy mô lớn để vượt qua suy thoái do hậu quả của đồng Yên mạnh; (iii) Chính sách tiền tệ: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) thực hiện chính sách lãi suất thấp dài hạn với mục đích hỗ trợ nền kinh tế và ngăn đồng Yên tăng giá hơn nữa.

Hai là, yếu tố bong bóng: (i) Thổi phồng kì vọng về giá còn tăng cao hơn: Chính sách tài khóa, tiền tệ kéo dài nói trên đã làm thay đổi tâm lí người dân. Đất tăng giá dựa trên “câu thần chú” là giá bất động sản không bao giờ giảm; (ii) Mở cửa thị trường tài chính: Thị trường tài chính được mở rộng với việc sử dụng các công cụ của thị trường vốn để huy động vốn khối lượng lớn, lãi suất thấp, đặc biệt ở là các tập đoàn lớn. Song song với đó là việc đầu tư tài chính tràn lan (ZAITEKU), chủ yếu được tiến hành bởi các công ty lớn. Các định chế tài chính khi đó đầu tư rất nhiều vào thị trường bất động sản.

Kết quả là vào năm 1990, thời điểm cuối chu kì của nền kinh tế bong bóng, giá đất thương mại ở Tokyo là 27,05 triệu Yên mỗi tsubo (đơn vị đo lường diện tích của Nhật Bản, tương đương 3,3 m2), cao hơn 7 lần so với năm 1983. Ngoài ra, từ năm 1985 đến 1989, dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp bất động sản đã tăng 95%, trong khi cho vay đối với các định chế tài chính phi ngân hàng tăng 101%.

Phóng viên: Xin ông cho biết bong bóng bất động sản của Nhật Bản đã vỡ thế nào?

Ông Keita Matsunami: Để ngăn chặn lạm phát do nền kinh tế phát triển quá nóng, tháng 5/1989, BoJ tăng lãi suất chiết khấu lên lần đầu tiên sau 9 năm. Các đợt tăng lãi suất liên tiếp kể từ đó đã dẫn đến nhận thức rộng rãi của mọi người về “bong bóng đang vỡ”. Kết hợp với việc giá cổ phiếu sụt giảm, kì vọng của người dân về giá tài sản tăng đã nhanh chóng biến mất.

Bên cạnh đó, mặc dù trước đây BoJ đã nhiều lần đưa ra các quy định về cho vay bất động sản, quy định được đưa ra vào tháng 4/1990 nhằm hạn chế tỉ lệ tăng trưởng tín dụng bất động sản trong hạn mức tăng trưởng tín dụng chung, được coi là nguyên nhân chính, mang tính quyết định. Tại thời điểm tháng 6/1990, trong tổng mức dư nợ 120 nghìn tỉ Yên đối với bất động sản, các khoản vay ngân hàng chiếm 59 nghìn tỉ Yên. Quy định mới này đã tỏ ra hiệu quả trong việc cắt giảm nguồn tài trợ vốn với kinh doanh bất động sản.

Phóng viên:
Vậy, làm thế nào để ngăn chặn bong bóng bất động sản xảy ra?

Ông Keita Matsunami: Trên thực tế, việc tăng giá tài sản dựa trên tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đã nêu trên là một sự kiện lành mạnh, không có vấn đề gì. Vấn đề là việc tăng giá lệch quỹ đạo đáng kể so với các nguyên tắc cơ bản và để ngăn chặn sự tăng giá đó, cần cấm đầu cơ mua bán bất động sản ngay từ đầu hoặc đưa ra các quy định hiệu quả nhằm kiểm soát cho vay đầu cơ bất động sản trong khi không gây ảnh hưởng đến giao dịch bất động sản gắn với nhu cầu thực tế.

Phóng viên: Theo ông, nếu có bong bóng bất động sản, chúng ta nên làm thế nào để ngăn nó vỡ?

Ông Keita Matsunami:
Những thay đổi về giá tài sản luôn đi kèm với giai đoạn điều chỉnh. Vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng Lehman Brothers, Chính phủ Hoa Kỳ đã sử dụng ngân sách chính phủ và nhanh chóng xử lí các tài sản không hiệu quả của các tổ chức tài chính, đưa nền kinh tế nhanh chóng trở lại trạng thái bình thường. Trong trường hợp của Nhật Bản, phải mất 10 năm kể từ khi bong bóng vỡ đến khi Chính phủ Nhật Bản giải ngân các gói tài chính công cho các tổ chức tài chính lớn. Việc chậm trễ hỗ trợ ngân sách chính phủ để xử lí khiến cho nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ một thời gian dài. Người ta nói rằng, việc Chính phủ Nhật Bản không thể đưa ra các quyết định chính trị hợp lí do dành nhiều thời gian ưu tiên đối phó với phản ứng dữ dội từ các phương tiện truyền thông đại chúng và công chúng.

Phóng viên:
Xin ông gợi ý một số khuyến nghị đối với Việt Nam hiện tại?

Ông Keita Matsunami: Những gì tôi kể ra trên đây là câu chuyện của Nhật Bản từ những năm 1980 đến 1990 và so với Việt Nam ngày nay, dù có điểm tương đồng, thực tế cũng có nhiều điểm khác biệt so với Nhật Bản như đã nêu ở trên. Tình hình hiện nay ở Việt Nam khác với Nhật Bản thời điểm đó.

Theo tôi, tình hình bất động sản ở Việt Nam hiện nay không phải là bong bóng. Một thực tế rõ ràng là, nhu cầu thực về nhà ở của người dân, đặc biệt là nhu cầu nhà ở cho người lao động thu nhập thấp vẫn rất lớn. Đó là một điểm tích cực.

Trong thời kì bong bóng bất động sản, phản ứng của Chính phủ Nhật Bản quá chậm và rời rạc, qua đó dẫn đến một “thập kỉ mất mát”. Do đó, các hành động nhanh chóng của Chính phủ Việt Nam là rất quan trọng trong trường hợp này, bao gồm:

Một là, về các biện pháp tài khóa: Thông qua chính sách tài khóa, Chính phủ có thể hỗ trợ cho người tiêu dùng thông qua việc giảm thuế, gia tăng chi tiêu công. Để đảm bảo rằng các biện pháp tài chính không gây ra bong bóng bất động sản khác, các biện pháp đó nên được áp dụng đối với phân khúc nhà ở xã hội/nhà ở có giá vừa phải phù hợp với thu nhập của đa số người lao động.

Hai là, các biện pháp thanh khoản để tránh khủng hoảng tín dụng: Khủng hoảng tín dụng, sau đó dẫn đến giảm phát ở Nhật Bản trong những năm 1990, là do các ngân hàng không muốn cho vay. Hạn chế cho vay làm cho lượng tiền được bơm vào nền kinh tế ít đi. Do đó, người tiêu dùng và doanh nghiệp không thể vay để đầu tư sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, mặc dù lãi suất thấp, khiến giá cả giảm sâu hơn. Mặc dù các ngân hàng đã được cấp ngân quỹ để cơ cấu lại bảng cân đối kế toán của mình, nhưng họ đã không làm như vậy vì sợ bị lộ những khoản lỗ được che giấu từ lâu. Do đó, các khoản lỗ của ngân hàng cần được ghi nhận để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng tín dụng, đồng thời cần minh bạch hóa hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng phải tin tưởng vào khả năng đánh giá và quản lí rủi ro của mình.

Ba là, giảm tình trạng mất cân đối cung cầu: Hiện tại, ở Việt Nam, nguồn cung bất động sản, đặc biệt là nguồn cung nhà ở xã hội tương đối khan hiếm và chậm. Điều này được lí giải chủ yếu do tính dễ bị tổn thương về mặt pháp lí của bất động sản: Hệ thống các văn bản pháp quy về bất động sản chưa đồng bộ, đôi khi còn xảy ra tình trạng “luật chồng luật” dẫn đến tranh cãi, lúng túng trong thực tiễn áp dụng. Những lỗ hổng ở đây bao gồm khó khăn trong xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất… dẫn đến mất cân đối cung cầu, gây biến động giá/bong bóng tài sản về lâu dài. Để đối phó với điều này, Chính phủ Việt Nam nên xem xét lại quy trình phê duyệt theo quy định để tháo gỡ những trở ngại cho các nhà phát triển dự án bất động sản nhằm gia tăng nguồn cung.

Bốn là, giảm sự mất cân đối giữa phân khúc cao cấp và nhà ở xã hội/nhà ở bình dân: Nhìn chung, cơ cấu sản phẩm nhà ở tại Việt Nam hiện nay vẫn thiên về phân khúc nhà ở cao cấp dành cho người có thu nhập trung bình - khá. Ngược lại, số lượng phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân còn tương đối ít, ảnh hưởng đến sự an cư lạc nghiệp của phần lớn người lao động Việt Nam là tầng lớp lao động - lực lượng nền tảng của các cơ sở sản xuất, xuất khẩu, tiêu dùng tại thị trường trong nước và quốc tế. Chính phủ Việt Nam nên tạo nhiều ưu đãi hơn cho nhà ở xã hội/nhà ở giá rẻ bằng các hình thức không chỉ ưu đãi về thuế, ưu đãi lãi suất mà còn cung cấp/tạo quỹ đất sẵn có đối với nhà ở xã hội/nhà ở giá rẻ cho các nhà phát triển bất động sản.

Năm là, giảm chi phí đầu vào của các doanh nghiệp bất động sản: Một khó khăn lớn khác của các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam hiện nay là đang gặp khó khăn trong huy động vốn từ thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu… các doanh nghiệp bất động sản còn chịu tác động từ biến động của lãi suất, tỉ giá và giá nguyên vật liệu đầu vào cao dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn khiến giá nhà đất tăng cao. Cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Xây dựng để từ đó đưa ra các giải pháp cho những điểm nghẽn đó.

Phóng viên:
Xin cảm ơn ông Keita Matsunami!

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tận dụng cơ hội từ thuế tối thiểu toàn cầu: Góc nhìn từ thực thi chính sách pháp luật

Tận dụng cơ hội từ thuế tối thiểu toàn cầu: Góc nhìn từ thực thi chính sách pháp luật

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của các tập đoàn đa quốc gia, việc thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu đã trở thành một xu hướng tất yếu nhằm ngăn chặn tình trạng trốn thuế và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đối với Việt Nam, chính sách thuế tối thiểu toàn cầu không chỉ mang lại cơ hội mà còn đặt ra những thách thức đáng kể. Để tối ưu hóa những cơ hội và vượt qua những thách thức này, Việt Nam cần triển khai hiệu quả các biện pháp pháp lý và chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế và đầu tư vào một hệ thống quản lý thuế hiện đại.
Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược

Chuyển đổi hệ thống ngân hàng trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm và khuyến nghị chiến lược

Các ngân hàng tại Trung tâm tài chính quốc tế sẽ phải tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế với những yêu cầu về tính linh hoạt và khả năng đáp ứng cao, đặc biệt là trong môi trường tài chính toàn cầu hóa như hiện nay.
Việt Nam hướng đến xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tầm cỡ toàn cầu

Việt Nam hướng đến xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tầm cỡ toàn cầu

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng gắn kết và dòng vốn quốc tế liên tục dịch chuyển, việc phát triển trung tâm tài chính quốc tế (IFC) không chỉ là tham vọng chiến lược mà còn là cơ hội để Việt Nam tái định vị vị thế trên bản đồ tài chính khu vực. Đây là khẳng định của các chuyên gia tại sự kiện "Kinh nghiệm quốc tế và vai trò hệ thống ngân hàng trong trung tâm tài chính" do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 16/4/2025.
Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nhiều quốc gia đã chủ động phát triển các trung tâm tài chính như một mũi nhọn chiến lược thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập. Với độ mở kinh tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam liệu đã hội tụ đủ các điều kiện để phát triển các trung tâm tài chính. Sự ra đời của Nghị quyết 42/NQ-CP của Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến trung tâm tài chính tại Việt Nam chính là bước đi đầu tiên trong hành trình đó. Nhằm làm rõ thêm tiềm năng, điều kiện, thách thức cũng như những đề xuất cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, Thời báo Ngân hàng đã phỏng vấn TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính.
Tài chính xanh trong phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Tài chính xanh trong phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Mục tiêu chính của bài viết là phân tích vai trò của tài chính xanh trong thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Bài viết tập trung đánh giá các cơ chế tài chính hiện có, làm rõ mối quan hệ giữa tài chính xanh và năng lượng tái tạo, từ đó đề xuất chính sách cần thiết để tối ưu hóa tác động của tài chính xanh trong lĩnh vực này.
Kết nối tài chính xanh với thị trường carbon: Hướng đi “xanh” cho nền kinh tế

Kết nối tài chính xanh với thị trường carbon: Hướng đi “xanh” cho nền kinh tế

Mô hình kết nối tài chính xanh với thị trường carbon là huy động nguồn vốn xanh cho các dự án, chương trình, hoạt động giảm thiểu phát thải khí nhà kính đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bền vững. Ngoài ra, mô hình này còn thúc đẩy sự phát triển của các công cụ tài chính xanh trên cơ sở thị trường carbon.
Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Thế giới hiện nay đang trải qua một giai đoạn chuyển đổi sâu sắc, với những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Việt Nam cũng đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tiếp nối các thành tựu của thời kỳ độc lập và đổi mới. Trong bối cảnh này, phát triển thị trường tài chính lành mạnh, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Điều này không chỉ hỗ trợ tăng trưởng bền vững mà còn góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.
Thủ tướng: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân

Thủ tướng: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân

Chiều ngày 02/4/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân đã chủ trì phiên họp lần thứ hai của Ban Chỉ đạo, tiếp tục cho ý kiến, hoàn thiện thêm một bước dự thảo Đề án để chuẩn bị trình Bộ Chính trị.
Xem thêm
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc