Bong bóng bất động sản ở Nhật Bản những năm 1980 và 1990 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Thị trường tài chính
Hiện nay, bất động sản nói chung ở Việt Nam đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm từ Chính phủ, doanh nghiệp tới người dân. Trong những năm 1980 và 1990, ở Nhật Bản đã xảy ra tình trạng bong bóng bất động sản. Để xử lí tình trạng đó, Chính phủ Nhật Bản cần tương đối nhiều thời gian và nguồn lực tài chính để giải quyết hậu quả. Phóng viên Tạp chí Ngân hàng đã có cuộc trao đổi với ông Keita Matsunami - Tổng Giám đốc Ngân hàng Mizuho tại Việt Nam về những bài học từ bong bóng bất động sản ở Nhật Bản những năm 1980 và 1990 cũng như ý nghĩa đối với Việt Nam.
aa

Ngân hàng Mizuho là một trong những ngân hàng nước ngoài đầu tiên có mặt tại Việt Nam với việc thành lập Chi nhánh Hà Nội và Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh lần lượt vào năm 1996 và năm 2006. Ngoài các giải pháp tài chính toàn diện cho các tổ chức và khách hàng trong và ngoài nước, Mizuho còn duy trì mối quan hệ đối tác chiến lược với Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), một trong những ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam thông qua tỉ lệ sở hữu 15% vốn điều lệ. Sau 26 năm, Mizuho đã đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam và đóng vai trò cầu nối quan trọng để thực hiện các sáng kiến ​​giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản.

Hiện nay, bất động sản nói chung ở Việt Nam đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm từ Chính phủ, doanh nghiệp tới người dân. Trong những năm 1980 và 1990, ở Nhật Bản đã xảy ra tình trạng bong bóng bất động sản. Để xử lí tình trạng đó, Chính phủ Nhật Bản cần tương đối nhiều thời gian và nguồn lực tài chính để giải quyết hậu quả. Phóng viên Tạp chí Ngân hàng đã có cuộc trao đổi với ông Keita Matsunami - Tổng Giám đốc Ngân hàng Mizuho tại Việt Nam về những bài học từ bong bóng bất động sản ở Nhật Bản những năm 1980 và 1990 cũng như ý nghĩa đối với Việt Nam.

Ông Keita Matsunami - Tổng Giám đốc Ngân hàng Mizuho tại Việt Nam.

Phóng viên: Thưa ông, ông nhận định thế nào về tình hình bất động sản ở Việt Nam hiện nay?

Ông Keita Matsunami:
Hiện nay, bất động sản nói chung ở Việt Nam đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm từ Chính phủ, doanh nghiệp tới người dân. Tôi bắt đầu làm việc tại Mizuho Bank, Ltd. năm 1991, vào thời kì đỉnh điểm bong bóng bất động sản ở Nhật Bản và sau đó, chứng kiến ​​bong bóng vỡ. Vào thời điểm đó, chưa có “khái niệm bong bóng”; do đó, không có nhận thức rằng đó là bong bóng. Ngoài ra, sau khi bong bóng bất động sản vỡ, hầu hết mọi người đều không nhận ra rằng bong bóng đã vỡ trong một thời gian.

Tuy nhiên, cùng thời gian này, ở Hoa Kỳ và Trung Quốc, có vẻ như Chính phủ hai nước này đang hành động thận trọng để không mắc phải sai lầm tương tự. Họ phân tích kĩ lưỡng các sự kiện ở Nhật Bản, coi đó như một bài học để hạn chế xuất hiện các bong bóng nhỏ trước khi các bong bóng đó vỡ.

Theo tôi, tình hình bất động sản ở Việt Nam hiện nay không phải là bong bóng. Một thực tế rõ ràng là, nhu cầu thực về nhà ở của người dân, đặc biệt là nhu cầu nhà ở cho người lao động thu nhập thấp vẫn rất lớn. Đó là một điểm tích cực.

Phóng viên: Ông có thể mô tả tóm lược nguyên nhân gây ra bong bóng bất động sản của Nhật Bản?

Ông Keita Matsunami: Nhìn chung, bong bóng là khi giá tài sản tăng đột biến so với các nguyên tắc cơ bản. Nói cách khác, bong bóng là khi giá tài sản tăng bất thường khi không thể giải thích được bằng những nguyên tắc cơ bản.

Các yếu tố sau đây có thể là nguyên nhân dẫn đến việc bất động sản ở Nhật Bản tăng giá vào cuối những năm 1980:

Một là, thay đổi về các nguyên tắc cơ bản: (i) Gia tăng nhu cầu về bất động sản: Kể từ đầu những năm 1980, tỉ lệ văn phòng trống đã giảm do nhu cầu thuê văn phòng tăng, đặc biệt là ở trung tâm Tokyo và giá bất động sản đã bắt đầu tăng lên; (ii) Chính sách tài khóa: Hiệp định Plaza (Plaza Accord) khiến đồng Yên tăng giá đã gây thiệt hại cho ngành xuất khẩu của Nhật Bản. Tuy nhiên, lợi nhuận doanh nghiệp được cải thiện khi Chính phủ thực hiện các biện pháp quyết liệt như thúc đẩy đầu tư công với quy mô lớn để vượt qua suy thoái do hậu quả của đồng Yên mạnh; (iii) Chính sách tiền tệ: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) thực hiện chính sách lãi suất thấp dài hạn với mục đích hỗ trợ nền kinh tế và ngăn đồng Yên tăng giá hơn nữa.

Hai là, yếu tố bong bóng: (i) Thổi phồng kì vọng về giá còn tăng cao hơn: Chính sách tài khóa, tiền tệ kéo dài nói trên đã làm thay đổi tâm lí người dân. Đất tăng giá dựa trên “câu thần chú” là giá bất động sản không bao giờ giảm; (ii) Mở cửa thị trường tài chính: Thị trường tài chính được mở rộng với việc sử dụng các công cụ của thị trường vốn để huy động vốn khối lượng lớn, lãi suất thấp, đặc biệt ở là các tập đoàn lớn. Song song với đó là việc đầu tư tài chính tràn lan (ZAITEKU), chủ yếu được tiến hành bởi các công ty lớn. Các định chế tài chính khi đó đầu tư rất nhiều vào thị trường bất động sản.

Kết quả là vào năm 1990, thời điểm cuối chu kì của nền kinh tế bong bóng, giá đất thương mại ở Tokyo là 27,05 triệu Yên mỗi tsubo (đơn vị đo lường diện tích của Nhật Bản, tương đương 3,3 m2), cao hơn 7 lần so với năm 1983. Ngoài ra, từ năm 1985 đến 1989, dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp bất động sản đã tăng 95%, trong khi cho vay đối với các định chế tài chính phi ngân hàng tăng 101%.

Phóng viên: Xin ông cho biết bong bóng bất động sản của Nhật Bản đã vỡ thế nào?

Ông Keita Matsunami: Để ngăn chặn lạm phát do nền kinh tế phát triển quá nóng, tháng 5/1989, BoJ tăng lãi suất chiết khấu lên lần đầu tiên sau 9 năm. Các đợt tăng lãi suất liên tiếp kể từ đó đã dẫn đến nhận thức rộng rãi của mọi người về “bong bóng đang vỡ”. Kết hợp với việc giá cổ phiếu sụt giảm, kì vọng của người dân về giá tài sản tăng đã nhanh chóng biến mất.

Bên cạnh đó, mặc dù trước đây BoJ đã nhiều lần đưa ra các quy định về cho vay bất động sản, quy định được đưa ra vào tháng 4/1990 nhằm hạn chế tỉ lệ tăng trưởng tín dụng bất động sản trong hạn mức tăng trưởng tín dụng chung, được coi là nguyên nhân chính, mang tính quyết định. Tại thời điểm tháng 6/1990, trong tổng mức dư nợ 120 nghìn tỉ Yên đối với bất động sản, các khoản vay ngân hàng chiếm 59 nghìn tỉ Yên. Quy định mới này đã tỏ ra hiệu quả trong việc cắt giảm nguồn tài trợ vốn với kinh doanh bất động sản.

Phóng viên:
Vậy, làm thế nào để ngăn chặn bong bóng bất động sản xảy ra?

Ông Keita Matsunami: Trên thực tế, việc tăng giá tài sản dựa trên tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đã nêu trên là một sự kiện lành mạnh, không có vấn đề gì. Vấn đề là việc tăng giá lệch quỹ đạo đáng kể so với các nguyên tắc cơ bản và để ngăn chặn sự tăng giá đó, cần cấm đầu cơ mua bán bất động sản ngay từ đầu hoặc đưa ra các quy định hiệu quả nhằm kiểm soát cho vay đầu cơ bất động sản trong khi không gây ảnh hưởng đến giao dịch bất động sản gắn với nhu cầu thực tế.

Phóng viên: Theo ông, nếu có bong bóng bất động sản, chúng ta nên làm thế nào để ngăn nó vỡ?

Ông Keita Matsunami:
Những thay đổi về giá tài sản luôn đi kèm với giai đoạn điều chỉnh. Vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng Lehman Brothers, Chính phủ Hoa Kỳ đã sử dụng ngân sách chính phủ và nhanh chóng xử lí các tài sản không hiệu quả của các tổ chức tài chính, đưa nền kinh tế nhanh chóng trở lại trạng thái bình thường. Trong trường hợp của Nhật Bản, phải mất 10 năm kể từ khi bong bóng vỡ đến khi Chính phủ Nhật Bản giải ngân các gói tài chính công cho các tổ chức tài chính lớn. Việc chậm trễ hỗ trợ ngân sách chính phủ để xử lí khiến cho nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ một thời gian dài. Người ta nói rằng, việc Chính phủ Nhật Bản không thể đưa ra các quyết định chính trị hợp lí do dành nhiều thời gian ưu tiên đối phó với phản ứng dữ dội từ các phương tiện truyền thông đại chúng và công chúng.

Phóng viên:
Xin ông gợi ý một số khuyến nghị đối với Việt Nam hiện tại?

Ông Keita Matsunami: Những gì tôi kể ra trên đây là câu chuyện của Nhật Bản từ những năm 1980 đến 1990 và so với Việt Nam ngày nay, dù có điểm tương đồng, thực tế cũng có nhiều điểm khác biệt so với Nhật Bản như đã nêu ở trên. Tình hình hiện nay ở Việt Nam khác với Nhật Bản thời điểm đó.

Theo tôi, tình hình bất động sản ở Việt Nam hiện nay không phải là bong bóng. Một thực tế rõ ràng là, nhu cầu thực về nhà ở của người dân, đặc biệt là nhu cầu nhà ở cho người lao động thu nhập thấp vẫn rất lớn. Đó là một điểm tích cực.

Trong thời kì bong bóng bất động sản, phản ứng của Chính phủ Nhật Bản quá chậm và rời rạc, qua đó dẫn đến một “thập kỉ mất mát”. Do đó, các hành động nhanh chóng của Chính phủ Việt Nam là rất quan trọng trong trường hợp này, bao gồm:

Một là, về các biện pháp tài khóa: Thông qua chính sách tài khóa, Chính phủ có thể hỗ trợ cho người tiêu dùng thông qua việc giảm thuế, gia tăng chi tiêu công. Để đảm bảo rằng các biện pháp tài chính không gây ra bong bóng bất động sản khác, các biện pháp đó nên được áp dụng đối với phân khúc nhà ở xã hội/nhà ở có giá vừa phải phù hợp với thu nhập của đa số người lao động.

Hai là, các biện pháp thanh khoản để tránh khủng hoảng tín dụng: Khủng hoảng tín dụng, sau đó dẫn đến giảm phát ở Nhật Bản trong những năm 1990, là do các ngân hàng không muốn cho vay. Hạn chế cho vay làm cho lượng tiền được bơm vào nền kinh tế ít đi. Do đó, người tiêu dùng và doanh nghiệp không thể vay để đầu tư sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, mặc dù lãi suất thấp, khiến giá cả giảm sâu hơn. Mặc dù các ngân hàng đã được cấp ngân quỹ để cơ cấu lại bảng cân đối kế toán của mình, nhưng họ đã không làm như vậy vì sợ bị lộ những khoản lỗ được che giấu từ lâu. Do đó, các khoản lỗ của ngân hàng cần được ghi nhận để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng tín dụng, đồng thời cần minh bạch hóa hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng phải tin tưởng vào khả năng đánh giá và quản lí rủi ro của mình.

Ba là, giảm tình trạng mất cân đối cung cầu: Hiện tại, ở Việt Nam, nguồn cung bất động sản, đặc biệt là nguồn cung nhà ở xã hội tương đối khan hiếm và chậm. Điều này được lí giải chủ yếu do tính dễ bị tổn thương về mặt pháp lí của bất động sản: Hệ thống các văn bản pháp quy về bất động sản chưa đồng bộ, đôi khi còn xảy ra tình trạng “luật chồng luật” dẫn đến tranh cãi, lúng túng trong thực tiễn áp dụng. Những lỗ hổng ở đây bao gồm khó khăn trong xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất… dẫn đến mất cân đối cung cầu, gây biến động giá/bong bóng tài sản về lâu dài. Để đối phó với điều này, Chính phủ Việt Nam nên xem xét lại quy trình phê duyệt theo quy định để tháo gỡ những trở ngại cho các nhà phát triển dự án bất động sản nhằm gia tăng nguồn cung.

Bốn là, giảm sự mất cân đối giữa phân khúc cao cấp và nhà ở xã hội/nhà ở bình dân: Nhìn chung, cơ cấu sản phẩm nhà ở tại Việt Nam hiện nay vẫn thiên về phân khúc nhà ở cao cấp dành cho người có thu nhập trung bình - khá. Ngược lại, số lượng phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân còn tương đối ít, ảnh hưởng đến sự an cư lạc nghiệp của phần lớn người lao động Việt Nam là tầng lớp lao động - lực lượng nền tảng của các cơ sở sản xuất, xuất khẩu, tiêu dùng tại thị trường trong nước và quốc tế. Chính phủ Việt Nam nên tạo nhiều ưu đãi hơn cho nhà ở xã hội/nhà ở giá rẻ bằng các hình thức không chỉ ưu đãi về thuế, ưu đãi lãi suất mà còn cung cấp/tạo quỹ đất sẵn có đối với nhà ở xã hội/nhà ở giá rẻ cho các nhà phát triển bất động sản.

Năm là, giảm chi phí đầu vào của các doanh nghiệp bất động sản: Một khó khăn lớn khác của các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam hiện nay là đang gặp khó khăn trong huy động vốn từ thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu… các doanh nghiệp bất động sản còn chịu tác động từ biến động của lãi suất, tỉ giá và giá nguyên vật liệu đầu vào cao dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn khiến giá nhà đất tăng cao. Cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Xây dựng để từ đó đưa ra các giải pháp cho những điểm nghẽn đó.

Phóng viên:
Xin cảm ơn ông Keita Matsunami!

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Thị trường bất động sản Việt Nam năm 2025 mang đến nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn, đặc biệt trong các phân khúc bất động sản xanh, nhà ở giá rẻ và bất động sản nghỉ dưỡng. Các khu vực hưởng lợi từ hạ tầng như tỉnh Đồng Nai và tỉnh Long An (nay là tỉnh Tây Ninh) cũng là điểm đến tiềm năng cho các nhà đầu tư. Để thành công trong lĩnh vực này, các nhà đầu tư cần phải có kiến thức sâu rộng và chiến lược đầu tư thông minh. Việc nắm rõ các yếu tố pháp lý, tài chính, cạnh tranh, thị trường, cơ sở hạ tầng, công nghệ, và quản lý rủi ro sẽ giúp nhà đầu tư đạt được thành công và tối ưu hóa lợi nhuận trong lĩnh vực bất động sản. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của thị trường bất động sản Việt Nam.
Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Trên cơ sở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có thể tác động đến triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng như mục tiêu hướng tới đảm bảo Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045, bài viết đã xây dựng kịch bản tăng trưởng căn cứ vào Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các định hướng, kế hoạch, chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030 nhằm hướng tới Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045.
Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Xuất hiện tại thị trường Mỹ vào những năm cuối thế kỷ 20, chứng khoán hóa tài sản trí tuệ sớm thu hút được nhiều sự quan tâm của truyền thông và giới nghiên cứu, hứa hẹn sẽ bùng nổ như một phương án huy động vốn thay thế tiềm năng, mở khóa tính thanh khoản cho một tài sản vô hình còn nhiều dư địa để phát triển.
Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế quản lý thị trường vàng trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm chưa thật sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, người dân vẫn duy trì xu hướng tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản thụ động, thay vì chuyển hóa thành nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, phát triển kinh tế, khiến một nguồn lực khổng lồ bị đóng băng trong xã hội, không được chuyển dịch vào đầu tư, sản xuất hay tiêu dùng. Điều này cho thấy cần có những điều chỉnh chính sách phù hợp hơn, nhằm thúc đẩy thị trường vàng phát triển theo hướng minh bạch, ổn định, qua đó góp phần khơi thông nguồn lực trong nền kinh tế.
Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Mô hình D-SMART là giải pháp toàn diện và phù hợp cho ngành logistics tại Việt Nam, tích hợp các bài học từ những quốc gia thành công. Mô hình không chỉ giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu quả vận hành mà còn đóng góp vào sự phát triển logistics bền vững và hiện đại hóa ngành logistics tại Việt Nam. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam có vai trò quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics, đặc biệt trong việc hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp. Một số giải pháp tài chính như khoản vay ưu đãi, tín dụng xanh và tài trợ dựa trên hiệu suất giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, giảm thiểu chi phí đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác công - tư và sự đổi mới trong dịch vụ tài chính, qua đó, tạo động lực mạnh mẽ cho ngành logistics Việt Nam hướng tới mục tiêu giảm chi phí logistics xuống còn 15 - 18% GDP vào năm 2030.
Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Bài viết này tập trung phân tích cách thức một số công ty logistics tiên phong trên thế giới triển khai ESG, đánh giá những tác động cụ thể đến thu hút đầu tư. Trên cơ sở bài học kinh nghiệm rút ra, bài viết đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách phù hợp với bối cảnh ngành logistics Việt Nam nhằm thúc đẩy áp dụng ESG hiệu quả, hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành logistics trong thời gian tới.
Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Trong hơn một thập kỷ qua, vàng đã trở lại mạnh mẽ như một tài sản dự trữ chiến lược toàn cầu. Trước năm 2010, các ngân hàng trung ương thường bán vàng để chuyển sang giữ USD hoặc EUR. Thế nhưng, xu hướng này đã hoàn toàn đảo ngược.
Ngân hàng trung ương và vàng: Phân tích và hàm ý

Ngân hàng trung ương và vàng: Phân tích và hàm ý

Vàng giữ vai trò rất quan trọng trong chiến lược tài chính của các ngân hàng trung ương toàn cầu. Những động thái gia tăng nắm giữ vàng không chỉ phản ánh sự thay đổi trong cách thức bảo vệ tài sản dự trữ mà còn cho thấy vai trò chiến lược của vàng trong việc đối phó với các biến động kinh tế - chính trị toàn cầu. Việc nắm giữ vàng có hàm ý lớn đối với các nhà đầu tư và nhà hoạch định chính sách, yêu cầu sự linh hoạt, thận trọng trong việc ra quyết định về tiền tệ cũng như quản lý tài sản dự trữ quốc gia.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng