Ứng dụng công nghệ 4.0 để quản lý cung ứng dịch vụ tài chính, ngân hàng cho chuỗi giá trị nông sản ở Việt Nam

Công nghệ & ngân hàng số
Cho vay theo chuỗi giá trị (Value chain finance) là một trong chiến lược cho vay nông nghiệp phổ biến và hiệu quả trên thế giới. Việt Nam bước đầu đã hình thành các chuỗi trong sản xuất nông sản, năm...
aa

Cho vay theo chuỗi giá trị (Value chain finance) là một trong chiến lược cho vay nông nghiệp phổ biến và hiệu quả trên thế giới. Việt Nam bước đầu đã hình thành các chuỗi trong sản xuất nông sản, năm 2014 đã thí điểm cho vay theo Nghị quyết 14 của Chính phủ, tổng kết đưa vào một số điều khoản của Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 và mới nhất, được bổ sung, sửa đổi tại Nghị định 116/2018/NĐ-CP.

Tuy nhiên, để cung ứng sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng (SPDVTCNH) đầy đủ, đồng bộ cho một chuỗi giá trị đúng nghĩa sẽ còn nhiều vấn đề cần bàn, nhất là trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang từng bước số hóa mọi hoạt động, thì việc cung ứng quản lý SPDV cho chuỗi giá trị sẽ trở nên thuận lợi, tiết kiệm thời gian, chi phí rẻ hơn rất nhiều cho chuỗi giá trị nông sản. Trong khuôn khổ bài báo, tôi cố gắng phác thảo ra một ý tưởng đề xuất cho việc ứng dụng CN4.0 để tạo đột phá nhằm thay đổi cách tổ chức sản xuất nông nghiệp đi theo chuỗi giá trị (Value chain) được khép kín từ khâu cung ứng đầu vào - tổ chức sản xuất - thu mua chế biến - tiêu thụ và xuất khẩu.

1. Mô phỏng chuỗi giá trị nông sản và những yêu cầu đặt ra cần giải quyết bằng tích hợp CN4.0 (Hình 1)


Có thể hình dung ra mấy đặc điểm chính của chuỗi giá trị và việc cung ứng dịch vụ tài chính/hoặc dịch vụ công cho chuỗi giá trị qua 3 trục chính:

Trục 1: Các thành viên của chuỗi giá trị gắn kết lại với nhau một cách chặt chẽ trên cở sở tạo ra dòng tiền thu nhập cho thành viên từ các SP đầu vào và đầu ra của một chuỗi giá trị về nông sản;

Trục 2: Các định chế gồm ngân hàng thương mại (NHTM), tổ chức tài chính phi ngân hàng (nhất là cho thuê tài chính), nhà đầu tư, bảo hiểm, tài chính vi mô cung ứng các dịch vụ tài chính theo phân khúc khách hàng mà họ lựa chọn trong đó có sự kết nối theo chiều dọc và chiều ngang;

Trục 3: Dịch vụ công từ chính quyền/từ Viện nghiên cứu chuyển giao/hoặc dịch vụ hỗ trợ đào tạo… cho thành viên trong chuỗi giá trị.

Đương nhiên, môi trường sinh thái xung quanh chuỗi giá trị nông sản còn phải là: Chính sách pháp luật - môi trường văn hóa xã = hội vùng miền - dịch vụ Logistic cần đồng bộ đi theo. (Bảng 1)

Ứng dụng CN 4.0 nhiều tác dụng cho chuỗi nông sản

Công nghệ lõi của cách mạng công nghiệp lần thứ tư (viết tắt CN4.0) có thể kể đến như IoT, Bigdata, điện toán đám mây, AI, Blockchain, công nghệ sinh học, nano... Khi tích hợp các CN4.0 sẽ ứng dụng CN4.0 rất nhiều trong hoạt động của chuỗi giá trị nông sản như: lập kế hoạch kinh doanh, tính toán chi phí, doanh thu theo mùa vụ; thu thập thông tin dữ liệu đánh giá về môi trường, điều khiển các thiết bị nhằm giữ cho môi trường của cây trồng vật nuôi theo quy trình chuẩn; hỗ trợ cảnh báo tự động tình trạng bệnh dịch, hỗ trợ phân tích đánh giá về năng suất chất lượng sản phẩm, giúp đưa ra các giải pháp tối ưu hơn; CN4.0 giúp thiết lập hệ sinh thái kết nối giữa các thành viên trong toàn chuỗi giá trị, trao đổi về thông tin, tư vấn chia sẻ kinh nghiệm…



CN4.0 giúp tự động hóa nhiều quy trình giao dịch của thành viên

trong chuỗi giá trị nông sản với ngân hàng

Dữ liệu lớn có thể giúp cải thiện chất lượng dự báo về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để ra quyết định trong sản xuất của chuỗi, ứng dụng cho chương trình bảo hiểm, đưa ra các khuyến cáo về thời gian gieo trồng hay xuống giống trong nuôi trồng thủy sản. IoT giúp thay đổi hệ thống phân phối truyền thống sang việc mua bán trực tuyến giữa người sản xuất với người tiêu dùng, gia tăng hiệu quả về truy xuất nguồn gốc, kiểm soát an toàn thực phẩm.

IoT và Bigdata hỗ trợ rất tốt cho công tác tập huấn và đào tạo nâng cao năng lực thành viên trong chuỗi; giúp thay đổi cập nhật mới giáo trình đào tạo; gắn giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng trên thực tiễn…

Công nghệ sinh học trong kỷ nguyên 4.0 mở ra nhiều triển vọng cho nông nghiệp nếu tận dụng tốt có thể lưu trữ nguồn gen quý, tạo ra giống kháng bệnh tốt, tạo nền tảng phát triển sản phẩm nông nghiệp sạch của chuỗi.

Vật liệu mới được tạo bởi CMCN4.0 có nhiều tính năng đặc biệt, nhẹ hơn, bền hơn, có thể tái chế, dễ thích ứng trong sản xuất nông nghiệp; gần đây xuất hiện các vật liệu thông minh tự phục hồi, tự làm sạch, khả năng phục hồi lại hình dạng ban đầu, vật liệu nano được dự báo sẽ giúp cho tổ chức chuỗi sản xuất sạch an toàn hiệu quả, tiết kiệm chi phí.

2. Số hóa dịch vụ tài chính, ngân hàng cung cấp cho chuỗi giá trị nông sản và những lợi ích

Cung ứng sản phẩm dịch vụ tài chính cho một chuỗi giá trị sẽ rất đa dạng, trọn gói, tạo ra những liên kết chuỗi xuyên suốt bởi đường đi của dòng tiền nếu như các thành viên cung ứng hàng hóa, dịch vụ tuân thủ thanh toán qua các trung gian thanh toán (gồm ngân hàng và các công ty được phép cung ứng dịch vụ thanh toán). Một hộ nông dân vay tiền mua con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học của công ty trong chuỗi thì NHTM A cho vay chuyển thẳng cho công ty này có tài khoản tại NHTM B; kế tiếp NHTM C cho vay đơn vị thu mua chế biến nông sản đem tiêu thụ xuất khẩu thì cũng chuyển tiền vào tài khoản của người nông dân ở NHTM A… Như vậy, dòng tiền khi giải ngân theo hóa đơn giữa các bên đều minh bạch, NHTM kiểm soát được đường đi dòng tiền, hạn chế rủi ro khi dùng tiền mặt; các cơ quan thuế cũng sẽ yên tâm thực hiện chính sách hoàn thuế cho người nông dân khi sản xuất cung ứng nguyên liệu đầu vào cho xuất khẩu;… Chúng tôi đã có thảo luận, phỏng vấn trực tiếp DN, HTX và hộ nông dân hoàn toàn đồng ý chuyển khoản từ 200 ngàn đồng trở lên, vấn đề là liên kết dọc giữa các NHTM và trung gian thanh toán thông qua kiểm tra tuân thủ của chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố.

Dưới đây chúng tôi sơ bộ liệt kê các SPDV tài chính cung cấp, bên cung cấp, bên nhận cung ứng và khả năng số hóa trên nền CN4.0 để tích hợp phục vụ cho toàn chuỗi giá trị. (Bảng 2)


Lợi ích từ dịch vụ tài chính ngân hàng số hóa cung ứng cho toàn chuỗi giá trị nông sản:

Thứ nhất, CN4.0 giúp kết nối mở (APIs) từ ngân hàng hay tổ chức tài chính phi ngân hàng đến các thành viên trong chuỗi giá trị nông sản cũng như kết nối cơ quan cung ứng dịch vụ công thuận lợi, tạo lập hệ sinh thái đồng bộ cho chuỗi giá trị nông sản phát triển minh bạch, thuận lợi. Ví dụ: phân tích dữ liệu lớn (bigdata) kết hợp Blockchain, cloud và IoT tạo nền tảng hạ tầng về thông tin làm cơ sở để phân tích cần thiết cho công tác quản lý và đưa ra quyết định đúng đắn trong một môi trường nhiều biến động.

Thứ hai, ứng dụng CN4.0 làm cải thiện rất lớn về khả năng nhận diện khách hàng của ngân hàng qua KYC/eKWC; phân tích chấm điểm tín dụng khách hàng, ra quyết định cho vay nhanh chóng, chính xác cho từng thành viên trong chuỗi giá trị nông sản; quản lý tốt dòng tiền trong hệ thống ngân hàng, gia tăng khả năng cho vay tín chấp.

Thứ ba, số hóa tạo sự tối ưu về sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng hay gọi là cá thể hóa đến từng thành viên trong chuỗi giá trị. Ví dụ: cũng là sử dụng ví điện tử có gắn với hạn mức vay tiêu dùng của hộ gia đình là thành viên của chuỗi giá trị thì cũng được tính toán cụ thể cho mỗi hộ có nhu cầu chi tiêu ở mức khác nhau. CN4.0 giúp việc quản lý các máy sục nước được thuê tài chính bằng các Chip điện tử kết nối IoT, công ty cho thuê tài chính có thể biết tài sản sử dụng như thế nào, đến kỳ hạn trả nợ trong 3 ngày khách hàng không trả thì điều khiển qua Chip cho dừng hoạt động của máy sục này để nhắc nhở trả nợ.

Thứ tư, CN4.0 giúp tự động hóa nhiều quy trình giao dịch của thành viên trong chuỗi giá trị nông sản với ngân hàng. Khi đã cài APP trên điện thoại thông minh, thành viên trong chuỗi giá trị nông sản có thể chuyển tiền thanh toán, gửi tiết kiệm online, hoặc nhận tiền vay tự động khi đã được cấp sẵn hạn mức vay…

3. Một số đề xuất kiến nghị

Một là, lợi ích sẽ là rất lớn nếu ứng dụng CN4.0 trong số hóa cung ứng SPDVTCNH cho toàn chuỗi giá trị như nói trên. Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề đặt ra cho việc tạo lập hạ tầng số đồng bộ cho vùng của dự án có chuỗi giá trị nông sản hay toàn vùng: hạ tầng máy móc thiết bị (ngay trang bị điện thoại thông minh cho hộ nông dân phải tính đến); vấn đề kết nối đường truyền băng thông rộng; vấn đề cơ sở dữ liệu xây dựng chuẩn, được phép chia sẻ theo quy định; vấn đề về chính sách pháp luật tạo hành lang pháp lý đồng bộ bảo đảm các thành viên trong chuỗi giá trị nông sản giao kết với nhau hoặc vay vốn từ các định chế tài chính một cách có trách nhiệm, hiệu quả và bền vững. Trong đó, thiếu hụt lớn nhất cần phải sớm hoàn thiện là cơ sở dữ liệu nền kinh tế và dân cư - thể chế cho phép chia sẻ thông tin ở các cấp độ như thế nào; phần trang bị máy móc thiết bị thì người nông dân hầu hết chưa có điện thoại thông minh cần có nhà tài trợ, phí bưu chính viễn thông cần tiếp tục giảm thấp.

Hai là, thay đổi thói quen làm ăn nhỏ lẻ, thói quen sử dụng tiền mặt cần đặt ra lộ trình về giáo dục tài chính; thêm nữa, tập huấn để người dân hiểu, nắm bắt về sự hợp tác sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị cũng như sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng số. Ở đó, đích đến của truyền thông và giáo dục cần làm cho bà con nông dân thấy rõ việc sản xuất kinh doanh hiện nay muốn hiệu quả, bền vững, đó là tham gia chuỗi giá trị nông sản theo quy chuẩn cụ thể.

Ba là, ràng buộc trách nhiệm, chia sẻ lợi ích và hỗ trợ lẫn nhau khi rủi ro xảy ra của thành viên trong chuỗi giá trị hiện nay còn lỏng lẻo, chưa minh bạch, xu hướng chung sự thiệt thòi về nhóm yếu thế là hộ dân và HTX, bị ép giá. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần có quy định mẫu về một bộ quy tắc "luật chơi của các thành viên tham gia chuỗi giá trị gồm cả các NHTM, các cơ quan quản lý, viện nghiên cứu cung ứng dịch vụ công".

Tài liệu tham khảo:

- ThS. Phạm Xuân Hòe; ThS. Nguyễn Thị Minh Hằng: "Cho vay theo chuỗi giá trị - chiến lược cho vay phát triển nông nghiệp hiệu quả";

- TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn: Chính sách phát triển Khoa học công nghệ nông nghiệp trong bối cảnh CM4.0 (Hội thảo tại Hội nghị quốc gia Mỹ Đình).

ThS. Phạm Xuân Hòe
ThS. Đoàn Việt Nam


Nguồn: TCNH số 20/2018

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Bài viết đề cập đến rủi ro an ninh mạng trong dịch vụ Mobile Banking tại Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo mật toàn diện kết hợp GNN-GCD với các công nghệ định danh như IMEI, CCCD và VNeID. Hệ thống còn tích hợp mã HLV và thuật toán AES 256-bit để bảo vệ dữ liệu, giúp nâng cao độ bảo mật và tăng niềm tin người dùng.
Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Tường lửa dựa trên các tập luật là công cụ phổ biến giúp bảo vệ máy chủ ứng dụng web trước các cuộc tấn công tinh vi từ tin tặc, đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức, doanh nghiệp và ngân hàng. Bài viết này nghiên cứu việc ứng dụng mô hình học máy để đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của OWASP CRS. Đây là một trong những tập luật phổ biến được sử dụng cho tường lửa ứng dụng web.
Chuyển đổi số ngân hàng dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo

Chuyển đổi số ngân hàng dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo

Bài viết phân tích vai trò trọng yếu của AI trong chuyển đổi số ngành Ngân hàng, giúp tối ưu vận hành, quản lý rủi ro và nâng cao trải nghiệm khách hàng. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra những thách thức về bảo mật dữ liệu và đề xuất định hướng phát triển bền vững
Ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Bài viết này phân tích thực trạng ứng dụng Blockchain trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam và gợi ý định hướng phát triển trong tương lai.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Chuyển đổi số mang lại cơ hội phát triển cho ngành Ngân hàng nhưng cũng làm gia tăng rủi ro xâm phạm dữ liệu cá nhân. Dù pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã có cải thiện, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Bài viết phân tích thực trạng pháp lý hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện phù hợp với xu hướng chuyển đổi số.
Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết nghiên cứu tổng quan về tài chính phi tập trung và các mô hình phổ biến, phân tích lợi ích, thách thức, đồng thời đề xuất mô hình phù hợp để phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính quốc tế có sức cạnh tranh khu vực và toàn cầu.
Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng và hệ sinh thái ngân hàng không chỉ là xu hướng công nghệ mà đang tái định hình căn bản ngành tài chính - ngân hàng, với mục tiêu mang lại trải nghiệm tích hợp, cá nhân hóa và bao trùm. Mặc dù mở ra tiềm năng lớn trong việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ và thúc đẩy đổi mới, tuy nhiên, sự kết hợp này cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng trong tương lai.
Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
Xem thêm
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc