“Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
“Tư tưởng DÂN” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc...
aa
“Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và Nhân dân ta một di sản tư tưởng vô cùng giá trị và lớn lao, đó là giá trị lý luận - kim chỉ nam soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong những di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Tư tưởng DÂN” rất đặc sắc của Người.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, không phải đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta mới đưa ra “Tư tưởng DÂN”. Trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc, do yêu cầu tất yếu của quy luật dựng nước và giữ nước mà cha ông ta đã sớm ý thức được vị thế và vai trò to lớn, không thể thiếu của nhân dân. Và cũng chính từ đây, đã hình thành “Tư tưởng DÂN” (tức tư tưởng thân dân, cận dân) trong quan niệm của lịch sử tư tưởng dân tộc thông qua các đánh giá và ghi nhận về vai trò của nhân dân ở các triều đại phong kiến. Thể hiện rõ nhất và điển hình nhất về “Tư tưởng DÂN” là việc tổ chức Hội nghị Diên Hồng của nhà Trần. Như chúng ta đã biết, cuối năm 1284, nhằm thống nhất ý chí và cũng là để tập hợp sức mạnh của toàn dân, triều đình nhà Trần đã trân trọng mời các vị bô lão đại diện cho nhân dân các làng, xã về dự một cuộc hội nghị đặc biệt tại cung điện Diên Hồng để bàn về một quyết sách chống xâm lược, bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng của giặc Nguyên Mông đang đe dọa vận mệnh quốc gia. Có thể nói “Hội nghị Diên Hồng là một sáng tạo rất độc đáo của nhà Trần, là biểu hiện của ý thức tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của toàn dân. Mãi mãi “Hội nghị Diên Hồng” sẽ ăn sâu và trao truyền trong tâm thức của người dân Việt Nam như một sức mạnh của truyền thống gắn liền với mục tiêu phấn đấu cho nền dân chủ hiện đại. Kể từ đó hai chữ Diên Hồng đã trở thành biểu trưng cho ý chí thống nhất của một dân tộc, thể hiện sự đồng lòng nhất trí giữa Nhà nước với người dân trong mối quan hệ vua - tôi, trên - dưới... Hội nghị Diên Hồng cũng mang ý nghĩa như một nguyên lý tạo nên sức mạnh dân tộc trước những thử thách của lịch sử và trong chừng mực nào đó cũng biểu hiện nhân tố cận dân, thân dân”1. Đặc biệt, đến triều đại Hậu Lê, thì tư tưởng thân dân được bộc lộ và định hình rất rõ nét ở Nguyễn Trãi. Dân là mối quan tâm thường trực ở Nguyễn Trãi. Ông quan niệm “Dân” là nền tảng quan trọng của xã hội, lực lượng chính để bảo vệ đất nước và phát triển xã hội. Chữ“dân” được nhắc tới trực tiếp 155 lần, ông đặc biệt chú ý đến những tầng lớp nhỏ bé trong xã hội, “người dân trong thôn cùng xóm vắng”, “dân manh lệ”, “xích tử”, “sinh linh”, “bách tính”,…2 Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi là một tư tưởng rất tiến bộ, đánh giá về vị thế và vai trò của nhân dân trên tất cả các phương diện: về sức mạnh quyết định của dân: “… mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”3; về lực lượng tạo ra của cải cho xã hội: “thường nghĩ những quy mô lộng lẫy đều do sức lao khổ của quân dân”4 và do đó, phải “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”; về mối quan hệ nhân quả, cộng sinh, phải nhận thấy rõ: dân gắn liền với nước, yêu nước là thương dân; về trách nhiệm và lòng nhân nghĩa: phải thương dân, trọng dân, chăm lo đến đời sống của nhân dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”5. Như vậy là, “từ vai trò quan trọng của dân đến nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế những tư tưởng lớn, vượt lên trên những khuôn khổ của học thuyết chính trị đạo đức nho giáo, đạt tới những giá trị văn hóa có tính phổ biến của nhân loại, có ý nghĩa phương pháp luận cho nhiều thế hệ người Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc, điển hình là tư tưởng thân dân.”6

Tiếp nối và phát triển “Tư tưởng DÂN” của truyền thống tư tưởng tiến bộ của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển “Tư tưởng DÂN” lên một sắc thái mới, hoàn thiện hơn và cao hơn về chất. Điểm đặc biệt nổi trội trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ, nếu trong nội hàm của “Tư tưởng DÂN” trước đây chỉ đề cập đến phạm trù “nhân dân” (tức là thân dân, cận dân), thì “Tư tưởng DÂN” của Người đã đề cập đến hai phạm trù “nhân dân” (thân dân) và phạm trù “dân tộc” (tức là điểm hội tụ và nhân lên sức mạnh của nhân dân)

Tư tưởng thân dân ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm đậm tinh thần dân chủ thân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: “Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Nói một cách khác, tức là "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”7. Như vậy, Hồ Chí Minh đã rất thấu hiểu điều này và chính Người là người đầu tiên đã cụ thể hóa “tư tưởng DÂN” và lãnh đạo tiến trình hiện thực hóa “tư tưởng DÂN” thông qua thực hành dân chủ ở Việt Nam. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, thân dân chính là phải thừa nhận và triển khai thực hiện để dân làm chủ khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước mình, và do vậy, dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Với tâm niệm “nước lấy dân làm gốc”8, Hồ Chí Minh cho rằng, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”9. Song, không dừng lại đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để tư tưởng thân dân đuợc hoàn thiện hơn và phát huy được hết sức mạnh của nhân dân thì vị thế của người dân phải được gắn liền với nơi hội tụ sức mạnh của nhân dân - tức dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ thân dân, tức là nhân dân được hưởng quyền lợi và lợi ích chính đáng của mình. Quyền lợi của nhân dân với nghĩa rộng như Hồ Chí Minh đã nói: “nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”10. Với nghĩa hẹp, đó là những quyền lợi mà thiết thân hàng ngày của nhân dân. Nhiệm vụ của nhà nước là phải: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành"11. Đây là quan điểm rất nhân văn, rất hiện đại trong “tư tưởng DÂN” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. “Tư tưởng DÂN” là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà điều này được thể hiện rõ trong Di chúc của Người. Bởi vậy, ngay phần mở đầu của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến quá trình phấn đấu của mình, đó là phấn đấu trước hết là vì Tổ quốc và nhân dân. Người nói: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.”12

Như vậy, trong Di chúc, “Tư tưởng DÂN” lại trở thành điểm nhấn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do đó, nên mọi việc khi thực hiện phải nghĩ đến nhân dân, không được làm ảnh hưởng đến nhân dân. Người đề nghị: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.”13 Và cũng từ đây, Người yêu cầu sau khi thắng lợi, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước, phục hồi sự phát triển của dân tộc. “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn.”14

Theo tư tưởng thân dân (quan tâm sát sao đến nhân dân) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải chú ý ngay đến “công việc đầu tiên” là “đối với con người”15 (nhân dân). Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải quan tâm tỉ mỉ, sát sao và có những việc làm cụ thể, có những chính sách phù hợp cho tất cả các tầng lớp nhân dân: đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...); đối với các liệt sĩ; đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ); đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; đối với phụ nữ; đối với đồng bào nông dân; thậm chí cả đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ;… 16 Bởi vậy, là lực lượng cầm quyền thì “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”17.

"Tư tưởng DÂN khi được tiếp cận dưới góc độ dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nhân dân phải được sống trong một dân tộc thống nhất, to đẹp; do đó, phải quyết tâm làm cho đất nước, dân tộc được “xây dựng hơn mười ngày nay”18. Tuy nhiên, theo Người, “công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”19. Bởi vậy, một điều tất yếu là phải dựa vào dân, chỉ có dựa vào lực lượng vĩ đại của dân mới thành công. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”20. Song, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ở đây không chỉ nên bó hẹp trong một quốc gia, mà dân tộc muốn có vị thế chân chính thì phải gắn với cộng đồng quốc tế. Bởi vậy, Người đã có dự định, sau khi nước nhà thống nhất, Người sẽ trước hết đi làm nghĩa vụ đối với dân tộc: “tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc”; song, “kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu…”21

Như vậy, một lần nữa, thông qua Di chúc của mình, “Tư tưởng DÂN” (nhân dân và dân tộc) đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc.

3. Tư tưởng thân dân theo tinh thần trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được luật hóa trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Bản Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định:“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân... do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều này được quy định thống nhất, xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp 2013. Đặc biệt, trong toàn bộ Hiến pháp 2013 từ “Nhân dân” luôn luôn được viết hoa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta từ Nhân dân được viết hoa. Đó không chỉ đơn thuần là thay đổi về kỹ thuật lập Hiến mà là sự thay đổi trong nhận thức, đề cao hơn nữa vai trò của nhân dân - chủ thể quan trọng, duy nhất của quyền lực nhà nước.

Tư tưởng thân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng ta. Qua các kỳ Đại hội Đảng, tư tưởng này ngày càng được bổ sung, phát triển. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, với việc bổ sung hai thành tố “dân giám sát, dân thụ hưởng”, tư tưởng thân dân đã có bước phát triển mới về chất, hệ thống hơn, hoàn thiện hơn cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”22.

“Tư tưởng DÂN” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới góc độ dân tộc cũng đuợc Đảng ta vận dụng, cụ thể hóa trong thực tiễn. Sinh thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, vị thế dân tộc và lợi ích dân tộc (quốc gia) là quan trọng, thiêng liêng và điều này được thể hiện ở độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Quán triệt và nhất quán và “tư tưởng DÂN” (dưới góc độ dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã khẳng định rõ mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đặc biệt, đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc”23 và được đưa thành quan điểm chỉ đạo cho toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước và Nhân Dân trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng và cho cả trong nhiều thập kỷ tới. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, nhất là khi các quốc gia trên thế giới đương đại đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để xử lý các mối quan hệ và giải quyết mọi vấn đề đang diễn ra thì việc Đảng ta đưa ra quan điểm chỉ đạo trên là đúng đắn, kịp thời trước những tình thế và diễn biến phức tạp đang diễn ra trên thế giới. Do đó, hơn lúc nào hết, việc quán triệt và thấm nhuần “Tư tưởng DÂN” (lợi ích dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các hoạt động đối ngoại là cơ sở quan trọng để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc./.

1Xem: Hội nghị Diên Hồng - Sức mạnh của sự đồng thuận. Tạp chí Dân vận số 4/2017

2Xem: ThS. Cao Phan Giang - Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?portalid=33&tabid=19&distid=3481&name=Tu-tu-tuong-than-dan-cua-Nguyen-Trai-den-tu-tuong-dan-chu-cua-Ho-Chi-Minh ngày 05/01/2024

3Viện sử học (1979): Nguyễn Trãi, toàn tập. Nxb Khoa học xã hội, tr. 85

4Viện sử học (1979): Nguyễn Trãi, toàn tập. Nxb Khoa học xã hội, tr. 196

5Xem: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, do Ngô Tất Tố dịch. https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%ACnh_Ng%C3%B4_%C4%91%E1%BA%A1i_c%C3%A1o_(Ng%C3%B4_T%E1%BA%A5t_T%E1%BB%91_d%E1%BB%8Bch)

6Xem: ThS. Cao Phan Giang - Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?portalid=33&tabid=19&distid=3481&name=Tu-tu-tuong-than-dan-cua-Nguyen-Trai-den-tu-tuong-dan-chu-cua-Ho-Chi-Minh ngày 5-1-2024

7Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.10, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.377.

8Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, Nxb CTQG ST, HN, 2011, tr.501

9Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Nxb. CTQG ST, HN, 2011, tr. 434

10Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb CTQG ST, HN, 2011, tr.64

11Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, CTQG, H, 1995, tr. 152

12Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 615

13Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 615

14Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616

15Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616

16Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616-617

17Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 622

18Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 623

19Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 617

20Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 617

21Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 618

22ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb. CTQG ST, HN, 2021, tr.96-97

23ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb.CTQG T, HN, 2021, tr. 110

Theo TS. Phạm Thị Vui/xaydungdang.org.vn

Tin bài khác

Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Quản lý phát triển xã hội thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của toàn thể Nhân dân, của quốc gia, dân tộc, trong đó Nhà nước là chủ thể quan trọng, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp là nòng cốt, Nhân dân là chủ thể quyết định...
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Đây là lần đầu tiên, bảo vệ môi trường được xác định là trụ cột, điều kiện, động lực của mô hình phát triển nhanh, bền vững, phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa xanh và cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam.
Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nhìn tổng thể, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong giai đoạn phát triển mới, một Đảng kiên định, đổi mới và hành động vì hạnh phúc của nhân dân, vì một Việt Nam phồn vinh, hùng cường và thịnh vượng.
Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Trong bối cảnh không gian mạng trở thành phần tất yếu của đời sống xã hội, việc xây dựng “thế trận số” vững chắc và chủ động làm chủ truyền thông số là yêu cầu chiến lược để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và lan tỏa các giá trị đúng đắn, tích cực trong xã hội.
Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển bùng nổ của công nghệ, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đối diện với thách thức chưa từng có từ những “cơn bão” thông tin sai lệch, xuyên tạc trên môi trường số.
Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Trong kỷ nguyên số, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp thiết và mang tính chiến lược hơn, đòi hỏi tư duy đổi mới, cách tiếp cận hệ thống, gắn kết giữa “xây” và “chống”, giữa “thế trận lòng dân” và “thế trận số”.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Xem thêm
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô