“Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
“Tư tưởng DÂN” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc...
aa
“Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và Nhân dân ta một di sản tư tưởng vô cùng giá trị và lớn lao, đó là giá trị lý luận - kim chỉ nam soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong những di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Tư tưởng DÂN” rất đặc sắc của Người.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, không phải đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta mới đưa ra “Tư tưởng DÂN”. Trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc, do yêu cầu tất yếu của quy luật dựng nước và giữ nước mà cha ông ta đã sớm ý thức được vị thế và vai trò to lớn, không thể thiếu của nhân dân. Và cũng chính từ đây, đã hình thành “Tư tưởng DÂN” (tức tư tưởng thân dân, cận dân) trong quan niệm của lịch sử tư tưởng dân tộc thông qua các đánh giá và ghi nhận về vai trò của nhân dân ở các triều đại phong kiến. Thể hiện rõ nhất và điển hình nhất về “Tư tưởng DÂN” là việc tổ chức Hội nghị Diên Hồng của nhà Trần. Như chúng ta đã biết, cuối năm 1284, nhằm thống nhất ý chí và cũng là để tập hợp sức mạnh của toàn dân, triều đình nhà Trần đã trân trọng mời các vị bô lão đại diện cho nhân dân các làng, xã về dự một cuộc hội nghị đặc biệt tại cung điện Diên Hồng để bàn về một quyết sách chống xâm lược, bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng của giặc Nguyên Mông đang đe dọa vận mệnh quốc gia. Có thể nói “Hội nghị Diên Hồng là một sáng tạo rất độc đáo của nhà Trần, là biểu hiện của ý thức tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của toàn dân. Mãi mãi “Hội nghị Diên Hồng” sẽ ăn sâu và trao truyền trong tâm thức của người dân Việt Nam như một sức mạnh của truyền thống gắn liền với mục tiêu phấn đấu cho nền dân chủ hiện đại. Kể từ đó hai chữ Diên Hồng đã trở thành biểu trưng cho ý chí thống nhất của một dân tộc, thể hiện sự đồng lòng nhất trí giữa Nhà nước với người dân trong mối quan hệ vua - tôi, trên - dưới... Hội nghị Diên Hồng cũng mang ý nghĩa như một nguyên lý tạo nên sức mạnh dân tộc trước những thử thách của lịch sử và trong chừng mực nào đó cũng biểu hiện nhân tố cận dân, thân dân”1. Đặc biệt, đến triều đại Hậu Lê, thì tư tưởng thân dân được bộc lộ và định hình rất rõ nét ở Nguyễn Trãi. Dân là mối quan tâm thường trực ở Nguyễn Trãi. Ông quan niệm “Dân” là nền tảng quan trọng của xã hội, lực lượng chính để bảo vệ đất nước và phát triển xã hội. Chữ“dân” được nhắc tới trực tiếp 155 lần, ông đặc biệt chú ý đến những tầng lớp nhỏ bé trong xã hội, “người dân trong thôn cùng xóm vắng”, “dân manh lệ”, “xích tử”, “sinh linh”, “bách tính”,…2 Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi là một tư tưởng rất tiến bộ, đánh giá về vị thế và vai trò của nhân dân trên tất cả các phương diện: về sức mạnh quyết định của dân: “… mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”3; về lực lượng tạo ra của cải cho xã hội: “thường nghĩ những quy mô lộng lẫy đều do sức lao khổ của quân dân”4 và do đó, phải “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”; về mối quan hệ nhân quả, cộng sinh, phải nhận thấy rõ: dân gắn liền với nước, yêu nước là thương dân; về trách nhiệm và lòng nhân nghĩa: phải thương dân, trọng dân, chăm lo đến đời sống của nhân dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”5. Như vậy là, “từ vai trò quan trọng của dân đến nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế những tư tưởng lớn, vượt lên trên những khuôn khổ của học thuyết chính trị đạo đức nho giáo, đạt tới những giá trị văn hóa có tính phổ biến của nhân loại, có ý nghĩa phương pháp luận cho nhiều thế hệ người Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc, điển hình là tư tưởng thân dân.”6

Tiếp nối và phát triển “Tư tưởng DÂN” của truyền thống tư tưởng tiến bộ của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển “Tư tưởng DÂN” lên một sắc thái mới, hoàn thiện hơn và cao hơn về chất. Điểm đặc biệt nổi trội trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ, nếu trong nội hàm của “Tư tưởng DÂN” trước đây chỉ đề cập đến phạm trù “nhân dân” (tức là thân dân, cận dân), thì “Tư tưởng DÂN” của Người đã đề cập đến hai phạm trù “nhân dân” (thân dân) và phạm trù “dân tộc” (tức là điểm hội tụ và nhân lên sức mạnh của nhân dân)

Tư tưởng thân dân ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm đậm tinh thần dân chủ thân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: “Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Nói một cách khác, tức là "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”7. Như vậy, Hồ Chí Minh đã rất thấu hiểu điều này và chính Người là người đầu tiên đã cụ thể hóa “tư tưởng DÂN” và lãnh đạo tiến trình hiện thực hóa “tư tưởng DÂN” thông qua thực hành dân chủ ở Việt Nam. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, thân dân chính là phải thừa nhận và triển khai thực hiện để dân làm chủ khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước mình, và do vậy, dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Với tâm niệm “nước lấy dân làm gốc”8, Hồ Chí Minh cho rằng, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”9. Song, không dừng lại đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để tư tưởng thân dân đuợc hoàn thiện hơn và phát huy được hết sức mạnh của nhân dân thì vị thế của người dân phải được gắn liền với nơi hội tụ sức mạnh của nhân dân - tức dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ thân dân, tức là nhân dân được hưởng quyền lợi và lợi ích chính đáng của mình. Quyền lợi của nhân dân với nghĩa rộng như Hồ Chí Minh đã nói: “nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”10. Với nghĩa hẹp, đó là những quyền lợi mà thiết thân hàng ngày của nhân dân. Nhiệm vụ của nhà nước là phải: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành"11. Đây là quan điểm rất nhân văn, rất hiện đại trong “tư tưởng DÂN” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. “Tư tưởng DÂN” là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà điều này được thể hiện rõ trong Di chúc của Người. Bởi vậy, ngay phần mở đầu của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến quá trình phấn đấu của mình, đó là phấn đấu trước hết là vì Tổ quốc và nhân dân. Người nói: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.”12

Như vậy, trong Di chúc, “Tư tưởng DÂN” lại trở thành điểm nhấn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do đó, nên mọi việc khi thực hiện phải nghĩ đến nhân dân, không được làm ảnh hưởng đến nhân dân. Người đề nghị: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.”13 Và cũng từ đây, Người yêu cầu sau khi thắng lợi, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước, phục hồi sự phát triển của dân tộc. “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn.”14

Theo tư tưởng thân dân (quan tâm sát sao đến nhân dân) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải chú ý ngay đến “công việc đầu tiên” là “đối với con người”15 (nhân dân). Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải quan tâm tỉ mỉ, sát sao và có những việc làm cụ thể, có những chính sách phù hợp cho tất cả các tầng lớp nhân dân: đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...); đối với các liệt sĩ; đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ); đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; đối với phụ nữ; đối với đồng bào nông dân; thậm chí cả đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ;… 16 Bởi vậy, là lực lượng cầm quyền thì “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”17.

"Tư tưởng DÂN khi được tiếp cận dưới góc độ dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nhân dân phải được sống trong một dân tộc thống nhất, to đẹp; do đó, phải quyết tâm làm cho đất nước, dân tộc được “xây dựng hơn mười ngày nay”18. Tuy nhiên, theo Người, “công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”19. Bởi vậy, một điều tất yếu là phải dựa vào dân, chỉ có dựa vào lực lượng vĩ đại của dân mới thành công. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”20. Song, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ở đây không chỉ nên bó hẹp trong một quốc gia, mà dân tộc muốn có vị thế chân chính thì phải gắn với cộng đồng quốc tế. Bởi vậy, Người đã có dự định, sau khi nước nhà thống nhất, Người sẽ trước hết đi làm nghĩa vụ đối với dân tộc: “tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc”; song, “kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu…”21

Như vậy, một lần nữa, thông qua Di chúc của mình, “Tư tưởng DÂN” (nhân dân và dân tộc) đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc.

3. Tư tưởng thân dân theo tinh thần trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được luật hóa trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Bản Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định:“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân... do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều này được quy định thống nhất, xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp 2013. Đặc biệt, trong toàn bộ Hiến pháp 2013 từ “Nhân dân” luôn luôn được viết hoa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta từ Nhân dân được viết hoa. Đó không chỉ đơn thuần là thay đổi về kỹ thuật lập Hiến mà là sự thay đổi trong nhận thức, đề cao hơn nữa vai trò của nhân dân - chủ thể quan trọng, duy nhất của quyền lực nhà nước.

Tư tưởng thân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng ta. Qua các kỳ Đại hội Đảng, tư tưởng này ngày càng được bổ sung, phát triển. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, với việc bổ sung hai thành tố “dân giám sát, dân thụ hưởng”, tư tưởng thân dân đã có bước phát triển mới về chất, hệ thống hơn, hoàn thiện hơn cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”22.

“Tư tưởng DÂN” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới góc độ dân tộc cũng đuợc Đảng ta vận dụng, cụ thể hóa trong thực tiễn. Sinh thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, vị thế dân tộc và lợi ích dân tộc (quốc gia) là quan trọng, thiêng liêng và điều này được thể hiện ở độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Quán triệt và nhất quán và “tư tưởng DÂN” (dưới góc độ dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã khẳng định rõ mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đặc biệt, đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc”23 và được đưa thành quan điểm chỉ đạo cho toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước và Nhân Dân trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng và cho cả trong nhiều thập kỷ tới. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, nhất là khi các quốc gia trên thế giới đương đại đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để xử lý các mối quan hệ và giải quyết mọi vấn đề đang diễn ra thì việc Đảng ta đưa ra quan điểm chỉ đạo trên là đúng đắn, kịp thời trước những tình thế và diễn biến phức tạp đang diễn ra trên thế giới. Do đó, hơn lúc nào hết, việc quán triệt và thấm nhuần “Tư tưởng DÂN” (lợi ích dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các hoạt động đối ngoại là cơ sở quan trọng để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc./.

1Xem: Hội nghị Diên Hồng - Sức mạnh của sự đồng thuận. Tạp chí Dân vận số 4/2017

2Xem: ThS. Cao Phan Giang - Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?portalid=33&tabid=19&distid=3481&name=Tu-tu-tuong-than-dan-cua-Nguyen-Trai-den-tu-tuong-dan-chu-cua-Ho-Chi-Minh ngày 05/01/2024

3Viện sử học (1979): Nguyễn Trãi, toàn tập. Nxb Khoa học xã hội, tr. 85

4Viện sử học (1979): Nguyễn Trãi, toàn tập. Nxb Khoa học xã hội, tr. 196

5Xem: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, do Ngô Tất Tố dịch. https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%ACnh_Ng%C3%B4_%C4%91%E1%BA%A1i_c%C3%A1o_(Ng%C3%B4_T%E1%BA%A5t_T%E1%BB%91_d%E1%BB%8Bch)

6Xem: ThS. Cao Phan Giang - Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?portalid=33&tabid=19&distid=3481&name=Tu-tu-tuong-than-dan-cua-Nguyen-Trai-den-tu-tuong-dan-chu-cua-Ho-Chi-Minh ngày 5-1-2024

7Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.10, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.377.

8Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, Nxb CTQG ST, HN, 2011, tr.501

9Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Nxb. CTQG ST, HN, 2011, tr. 434

10Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb CTQG ST, HN, 2011, tr.64

11Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, CTQG, H, 1995, tr. 152

12Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 615

13Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 615

14Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616

15Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616

16Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616-617

17Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 622

18Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 623

19Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 617

20Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 617

21Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 618

22ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb. CTQG ST, HN, 2021, tr.96-97

23ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb.CTQG T, HN, 2021, tr. 110

Theo TS. Phạm Thị Vui/xaydungdang.org.vn
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Các cơ quan Trung ương

Tin bài khác

Những vấn đề mới đặt ra trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

Những vấn đề mới đặt ra trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

Điểm mới trong định hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập...
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người

Trong giai đoạn hiện tại, không một quốc gia nào có thể bỏ qua vấn đề nhân quyền mà có thể thiết lập quan hệ tốt đẹp với nước khác và không gặp phải sự phản kháng của nhân dân.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng

55 năm đã trôi qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị và tầm vóc thời đại. Di chúc của Người luôn là những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần giúp toàn Đảng, toàn Dân vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ, vững bước trên con đường phát triển.
Xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương trong sạch, vững mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương trong sạch, vững mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Trải qua 76 năm xây dựng và phát triển, theo yêu cầu của mỗi giai đoạn lịch sử, thời kỳ cách mạng khác nhau, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương luôn đoàn kết, sáng tạo, phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến môi trường kinh doanh, cạnh tranh giữa các quốc gia và một số khuyến nghị

Các quốc gia cần phải xem xét lại cách tiếp cận của mình đối với chính sách thuế để bảo đảm rằng sự phát triển kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho những tập đoàn lớn mà còn cho toàn xã hội. Một trong những giải pháp khả thi là áp dụng mức thuế tối thiểu toàn cầu nhằm hạn chế “cuộc đua xuống đáy” và tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng hơn.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài