“Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
“Tư tưởng DÂN” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc...
aa
“Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và Nhân dân ta một di sản tư tưởng vô cùng giá trị và lớn lao, đó là giá trị lý luận - kim chỉ nam soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong những di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Tư tưởng DÂN” rất đặc sắc của Người.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, không phải đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta mới đưa ra “Tư tưởng DÂN”. Trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc, do yêu cầu tất yếu của quy luật dựng nước và giữ nước mà cha ông ta đã sớm ý thức được vị thế và vai trò to lớn, không thể thiếu của nhân dân. Và cũng chính từ đây, đã hình thành “Tư tưởng DÂN” (tức tư tưởng thân dân, cận dân) trong quan niệm của lịch sử tư tưởng dân tộc thông qua các đánh giá và ghi nhận về vai trò của nhân dân ở các triều đại phong kiến. Thể hiện rõ nhất và điển hình nhất về “Tư tưởng DÂN” là việc tổ chức Hội nghị Diên Hồng của nhà Trần. Như chúng ta đã biết, cuối năm 1284, nhằm thống nhất ý chí và cũng là để tập hợp sức mạnh của toàn dân, triều đình nhà Trần đã trân trọng mời các vị bô lão đại diện cho nhân dân các làng, xã về dự một cuộc hội nghị đặc biệt tại cung điện Diên Hồng để bàn về một quyết sách chống xâm lược, bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng của giặc Nguyên Mông đang đe dọa vận mệnh quốc gia. Có thể nói “Hội nghị Diên Hồng là một sáng tạo rất độc đáo của nhà Trần, là biểu hiện của ý thức tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của toàn dân. Mãi mãi “Hội nghị Diên Hồng” sẽ ăn sâu và trao truyền trong tâm thức của người dân Việt Nam như một sức mạnh của truyền thống gắn liền với mục tiêu phấn đấu cho nền dân chủ hiện đại. Kể từ đó hai chữ Diên Hồng đã trở thành biểu trưng cho ý chí thống nhất của một dân tộc, thể hiện sự đồng lòng nhất trí giữa Nhà nước với người dân trong mối quan hệ vua - tôi, trên - dưới... Hội nghị Diên Hồng cũng mang ý nghĩa như một nguyên lý tạo nên sức mạnh dân tộc trước những thử thách của lịch sử và trong chừng mực nào đó cũng biểu hiện nhân tố cận dân, thân dân”1. Đặc biệt, đến triều đại Hậu Lê, thì tư tưởng thân dân được bộc lộ và định hình rất rõ nét ở Nguyễn Trãi. Dân là mối quan tâm thường trực ở Nguyễn Trãi. Ông quan niệm “Dân” là nền tảng quan trọng của xã hội, lực lượng chính để bảo vệ đất nước và phát triển xã hội. Chữ“dân” được nhắc tới trực tiếp 155 lần, ông đặc biệt chú ý đến những tầng lớp nhỏ bé trong xã hội, “người dân trong thôn cùng xóm vắng”, “dân manh lệ”, “xích tử”, “sinh linh”, “bách tính”,…2 Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi là một tư tưởng rất tiến bộ, đánh giá về vị thế và vai trò của nhân dân trên tất cả các phương diện: về sức mạnh quyết định của dân: “… mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”3; về lực lượng tạo ra của cải cho xã hội: “thường nghĩ những quy mô lộng lẫy đều do sức lao khổ của quân dân”4 và do đó, phải “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”; về mối quan hệ nhân quả, cộng sinh, phải nhận thấy rõ: dân gắn liền với nước, yêu nước là thương dân; về trách nhiệm và lòng nhân nghĩa: phải thương dân, trọng dân, chăm lo đến đời sống của nhân dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”5. Như vậy là, “từ vai trò quan trọng của dân đến nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế những tư tưởng lớn, vượt lên trên những khuôn khổ của học thuyết chính trị đạo đức nho giáo, đạt tới những giá trị văn hóa có tính phổ biến của nhân loại, có ý nghĩa phương pháp luận cho nhiều thế hệ người Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc, điển hình là tư tưởng thân dân.”6

Tiếp nối và phát triển “Tư tưởng DÂN” của truyền thống tư tưởng tiến bộ của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển “Tư tưởng DÂN” lên một sắc thái mới, hoàn thiện hơn và cao hơn về chất. Điểm đặc biệt nổi trội trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ, nếu trong nội hàm của “Tư tưởng DÂN” trước đây chỉ đề cập đến phạm trù “nhân dân” (tức là thân dân, cận dân), thì “Tư tưởng DÂN” của Người đã đề cập đến hai phạm trù “nhân dân” (thân dân) và phạm trù “dân tộc” (tức là điểm hội tụ và nhân lên sức mạnh của nhân dân)

Tư tưởng thân dân ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm đậm tinh thần dân chủ thân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: “Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Nói một cách khác, tức là "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”7. Như vậy, Hồ Chí Minh đã rất thấu hiểu điều này và chính Người là người đầu tiên đã cụ thể hóa “tư tưởng DÂN” và lãnh đạo tiến trình hiện thực hóa “tư tưởng DÂN” thông qua thực hành dân chủ ở Việt Nam. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, thân dân chính là phải thừa nhận và triển khai thực hiện để dân làm chủ khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước mình, và do vậy, dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Với tâm niệm “nước lấy dân làm gốc”8, Hồ Chí Minh cho rằng, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”9. Song, không dừng lại đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để tư tưởng thân dân đuợc hoàn thiện hơn và phát huy được hết sức mạnh của nhân dân thì vị thế của người dân phải được gắn liền với nơi hội tụ sức mạnh của nhân dân - tức dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ thân dân, tức là nhân dân được hưởng quyền lợi và lợi ích chính đáng của mình. Quyền lợi của nhân dân với nghĩa rộng như Hồ Chí Minh đã nói: “nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”10. Với nghĩa hẹp, đó là những quyền lợi mà thiết thân hàng ngày của nhân dân. Nhiệm vụ của nhà nước là phải: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành"11. Đây là quan điểm rất nhân văn, rất hiện đại trong “tư tưởng DÂN” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. “Tư tưởng DÂN” là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà điều này được thể hiện rõ trong Di chúc của Người. Bởi vậy, ngay phần mở đầu của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến quá trình phấn đấu của mình, đó là phấn đấu trước hết là vì Tổ quốc và nhân dân. Người nói: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.”12

Như vậy, trong Di chúc, “Tư tưởng DÂN” lại trở thành điểm nhấn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do đó, nên mọi việc khi thực hiện phải nghĩ đến nhân dân, không được làm ảnh hưởng đến nhân dân. Người đề nghị: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.”13 Và cũng từ đây, Người yêu cầu sau khi thắng lợi, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước, phục hồi sự phát triển của dân tộc. “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn.”14

Theo tư tưởng thân dân (quan tâm sát sao đến nhân dân) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải chú ý ngay đến “công việc đầu tiên” là “đối với con người”15 (nhân dân). Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải quan tâm tỉ mỉ, sát sao và có những việc làm cụ thể, có những chính sách phù hợp cho tất cả các tầng lớp nhân dân: đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...); đối với các liệt sĩ; đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ); đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; đối với phụ nữ; đối với đồng bào nông dân; thậm chí cả đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ;… 16 Bởi vậy, là lực lượng cầm quyền thì “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”17.

"Tư tưởng DÂN khi được tiếp cận dưới góc độ dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nhân dân phải được sống trong một dân tộc thống nhất, to đẹp; do đó, phải quyết tâm làm cho đất nước, dân tộc được “xây dựng hơn mười ngày nay”18. Tuy nhiên, theo Người, “công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”19. Bởi vậy, một điều tất yếu là phải dựa vào dân, chỉ có dựa vào lực lượng vĩ đại của dân mới thành công. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”20. Song, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ở đây không chỉ nên bó hẹp trong một quốc gia, mà dân tộc muốn có vị thế chân chính thì phải gắn với cộng đồng quốc tế. Bởi vậy, Người đã có dự định, sau khi nước nhà thống nhất, Người sẽ trước hết đi làm nghĩa vụ đối với dân tộc: “tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc”; song, “kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu…”21

Như vậy, một lần nữa, thông qua Di chúc của mình, “Tư tưởng DÂN” (nhân dân và dân tộc) đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc.

3. Tư tưởng thân dân theo tinh thần trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được luật hóa trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Bản Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định:“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân... do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều này được quy định thống nhất, xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp 2013. Đặc biệt, trong toàn bộ Hiến pháp 2013 từ “Nhân dân” luôn luôn được viết hoa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta từ Nhân dân được viết hoa. Đó không chỉ đơn thuần là thay đổi về kỹ thuật lập Hiến mà là sự thay đổi trong nhận thức, đề cao hơn nữa vai trò của nhân dân - chủ thể quan trọng, duy nhất của quyền lực nhà nước.

Tư tưởng thân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng ta. Qua các kỳ Đại hội Đảng, tư tưởng này ngày càng được bổ sung, phát triển. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, với việc bổ sung hai thành tố “dân giám sát, dân thụ hưởng”, tư tưởng thân dân đã có bước phát triển mới về chất, hệ thống hơn, hoàn thiện hơn cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”22.

“Tư tưởng DÂN” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới góc độ dân tộc cũng đuợc Đảng ta vận dụng, cụ thể hóa trong thực tiễn. Sinh thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, vị thế dân tộc và lợi ích dân tộc (quốc gia) là quan trọng, thiêng liêng và điều này được thể hiện ở độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Quán triệt và nhất quán và “tư tưởng DÂN” (dưới góc độ dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã khẳng định rõ mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đặc biệt, đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc”23 và được đưa thành quan điểm chỉ đạo cho toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước và Nhân Dân trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng và cho cả trong nhiều thập kỷ tới. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, nhất là khi các quốc gia trên thế giới đương đại đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để xử lý các mối quan hệ và giải quyết mọi vấn đề đang diễn ra thì việc Đảng ta đưa ra quan điểm chỉ đạo trên là đúng đắn, kịp thời trước những tình thế và diễn biến phức tạp đang diễn ra trên thế giới. Do đó, hơn lúc nào hết, việc quán triệt và thấm nhuần “Tư tưởng DÂN” (lợi ích dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các hoạt động đối ngoại là cơ sở quan trọng để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc./.

1Xem: Hội nghị Diên Hồng - Sức mạnh của sự đồng thuận. Tạp chí Dân vận số 4/2017

2Xem: ThS. Cao Phan Giang - Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?portalid=33&tabid=19&distid=3481&name=Tu-tu-tuong-than-dan-cua-Nguyen-Trai-den-tu-tuong-dan-chu-cua-Ho-Chi-Minh ngày 05/01/2024

3Viện sử học (1979): Nguyễn Trãi, toàn tập. Nxb Khoa học xã hội, tr. 85

4Viện sử học (1979): Nguyễn Trãi, toàn tập. Nxb Khoa học xã hội, tr. 196

5Xem: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, do Ngô Tất Tố dịch. https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%ACnh_Ng%C3%B4_%C4%91%E1%BA%A1i_c%C3%A1o_(Ng%C3%B4_T%E1%BA%A5t_T%E1%BB%91_d%E1%BB%8Bch)

6Xem: ThS. Cao Phan Giang - Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?portalid=33&tabid=19&distid=3481&name=Tu-tu-tuong-than-dan-cua-Nguyen-Trai-den-tu-tuong-dan-chu-cua-Ho-Chi-Minh ngày 5-1-2024

7Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.10, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.377.

8Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, Nxb CTQG ST, HN, 2011, tr.501

9Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Nxb. CTQG ST, HN, 2011, tr. 434

10Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb CTQG ST, HN, 2011, tr.64

11Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, CTQG, H, 1995, tr. 152

12Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 615

13Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 615

14Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616

15Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616

16Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 616-617

17Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 622

18Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 623

19Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 617

20Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 617

21Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, CTQG, H, 2011, tr. 618

22ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb. CTQG ST, HN, 2021, tr.96-97

23ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb.CTQG T, HN, 2021, tr. 110

Theo TS. Phạm Thị Vui/xaydungdang.org.vn

Tin bài khác

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Trân trọng giới thiệu bài viết: "Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030" của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm.
Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến

Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến

Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề quý I/2025 tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến, đồi Nà Bó, thị trấn Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Xem thêm
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc