Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 40-CT/TW về tín dụng chính sách xã hội

Hoạt động ngân hàng
Sau 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40-CT/TW), toàn hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tích cực vào cuộc
aa

Sau 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40-CT/TW), toàn hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tích cực vào cuộc, phối hợp chặt chẽ với Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh triển khai các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận nguồn vốn ưu đãi được nhanh chóng, kịp thời, thuận lợi… qua đó, giúp hàng trăm nghìn hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác vươn lên phát triển sản xuất, kinh doanh, có việc làm, bảo đảm thu nhập, ổn định cuộc sống, thoát nghèo bền vững.

Cả hệ thống chính trị vào cuộc, đồng hành cùng người nghèo

Thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu đã lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội, Chi nhánh NHCSXH tỉnh tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Chỉ thị số 40-CT/TW; chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương truyền tải thông tin đầy đủ, kịp thời tới các tầng lớp nhân dân về chính sách tín dụng ưu đãi, đồng thời, chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án để cụ thể hóa các nội dung Chỉ thị số 40-CT/TW, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội. Cùng với đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Công văn số 3767-CV/TU ngày 03/8/2015 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội để lãnh đạo các cấp, các ngành triển khai thực hiện, qua đó nâng cao nhận thức về vai trò của tín dụng chính sách xã hội, góp phần thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội.



Chỉ thị số 40-CT/TW là “luồng gió mới” giúp nhiều người nghèo

và các đối tượng chính sách khác được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, vươn lên thoát nghèo

Theo đó, các cấp ủy đảng, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình, kế hoạch hoạt động thường xuyên, chú trọng nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội gắn với việc thực hiện các chương trình mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm.

Cùng với đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy thường xuyên quan tâm, chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền địa phương hỗ trợ, đầu tư xây dựng trụ sở, phương tiện làm việc, đặc biệt là chỉ đạo bố trí nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác, tập trung các nguồn lực trong việc tổ chức, thực hiện có hiệu quả tín dụng chính sách trên địa bàn.

Kết quả qua 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW đã tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc tỉnh, tổ chức đoàn thể và cán bộ, đảng viên, công chức, các tầng lớp nhân dân về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của tín dụng chính sách xã hội. Các cấp ủy đảng đã tập trung quán triệt, chỉ đạo các cấp, các ngành chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, đề án để cụ thể hóa và tăng cường phối hợp triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Theo đó, nguồn vốn ngân sách ủy thác qua NHCSXH cho vay ngày càng tăng, tạo hiệu ứng thiết thực góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh; quốc phòng - an ninh được giữ vững, ổn định, niềm tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền các cấp ngày càng được nâng cao.

Đặc biệt, từ khi Chỉ thị số 40-CT/TW được ban hành, hằng năm, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và các huyện, thị xã, thành phố luôn quan tâm bố trí nguồn vốn ngân sách ủy thác qua Chi nhánh NHCSXH tỉnh để bổ sung nguồn vốn vay cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đến ngày 31/8/2024, nguồn vốn địa phương ủy thác sang NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đạt 1.789 tỉ đồng, chiếm 40% tổng nguồn vốn, tăng gần 1.620 tỉ đồng, tương ứng tăng 956% so với cuối năm 2014, trong đó, nguồn vốn nhận ủy thác của tỉnh đạt gần 1.689 tỉ đồng, nguồn vốn nhận ủy thác từ các huyện, thị xã, thành phố đạt hơn 100 tỉ đồng.

Hiện nay Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đang thực hiện 13 chương trình tín dụng chính sách. Tính đến ngày 31/8/2024, tổng nguồn vốn thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đạt 4.598 tỉ đồng; tổng dư nợ cho 80.379 khách hàng vay vốn là 4.605 tỉ đồng. Vốn tín dụng chính sách xã hội được thực hiện đồng bộ cùng với chương trình khác của các ngành, các cấp, góp phần giúp 31.732 lượt hộ dân thoát nghèo, hỗ trợ 47 xã xây dựng đạt chuẩn nông thôn mới; giúp 58.060 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay vốn, tạo việc làm và phát triển sản xuất, kinh doanh, chăn nuôi, trồng trọt… Đặc biệt, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ hơn 23.732 lượt hộ gia đình khó khăn vay vốn để trang trải chi phí học tập cho 25.852 học sinh, sinh viên trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, đào tạo nghề… không có trường hợp học sinh, sinh viên bỏ học vì không có khả năng đóng học phí; 16.677 hộ vay vốn sản xuất, kinh doanh tại các xã vùng khó khăn.

Chương trình cho vay giải quyết việc làm đã góp phần duy trì, ổn định và mở rộng việc làm cho 140.404 lượt lao động; giúp 77.461 hộ ở nông thôn vay vốn để đầu tư xây dựng 153.240 công trình nước sạch và công trình vệ sinh. Chương trình cho vay nhà ở xã hội đã giúp cho 554 lượt khách hàng vay mua nhà ở xã hội, xây dựng mới, sửa chữa nhà ở; giúp 92 hộ nghèo vay vốn xây dựng nhà ở, ổn định đời sống; hỗ trợ 208 hộ đồng bào dân tộc thiểu số vay vốn xây dựng nhà ở và chăn nuôi đạt hiệu quả; cho 62 cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập vay vốn để sửa chữa cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị giáo dục; giúp cho 34 doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh vay 127 tỉ đồng với lãi suất 0% để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất cho 11.823 lao động nhằm ổn định sản xuất cho các doanh nghiệp; cho 37 đối tượng sau khi chấp hành án phạt tù vay vốn với số tiền 2.592 triệu đồng.

Chất lượng tín dụng luôn được Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chú trọng củng cố và nâng cao. Tính đến ngày 31/8/2024, tổng nợ quá hạn chỉ chiếm 0,13% tổng dư nợ. Cùng với đó, hoạt động ủy thác qua các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được triển khai thực hiện tốt thông qua 82 điểm giao dịch xã, với 1.666 Tổ TK&VV, bảo đảm an toàn, hiệu quả, kịp thời, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đến ngày 31/8/2024, tổng dư nợ ủy thác qua 4 hội, đoàn thể đạt 4.598 tỉ đồng, chiếm 99,85% tổng dư nợ. Chất lượng hoạt động của Tổ TK&VV thường xuyên được quan tâm, duy trì nền nếp, ổn định với 1.623/1.666 Tổ TK&VV xếp loại tốt, chiếm 97,4%.

Hoạt động tín dụng chính sách xã hội đã tạo được động lực, sự phấn khởi, đồng thuận cao trong nhân dân. Vốn vay ưu đãi đã hỗ trợ nhiều hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn ở nông thôn phát triển sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, vươn lên làm giàu chính đáng, góp phần khôi phục các làng nghề truyền thống, tạo thêm việc làm, giúp bộ mặt nông thôn được cải thiện, ngày càng khang trang, văn minh, sạch đẹp; đồng thời, góp phần thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trên địa bàn, hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu của người dân, đặc biệt, góp phần ngăn chặn tệ nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn, làm thay đổi cơ bản nhận thức của người nghèo về ý thức tiết kiệm, tạo lập nguồn vốn tự có và tích lũy cho tương lai; giảm tỉ lệ thất nghiệp, tệ nạn, tội phạm, giữ gìn an ninh, ổn định kinh tế - xã hội địa phương.

Hiệu quả từ đồng vốn tín dụng chính sách xã hội

Tại huyện Côn Đảo - huyện đảo của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cách thành phố Vũng Tàu 97 hải lý, gia đình bà Nguyễn Thị Hoa, sinh sống ở khu dân cư số 3 là điển hình của gia đình thoát nghèo nhờ đồng vốn vay ưu đãi từ NHCSXH.

Bà Hoa cho biết, khi mới bắt đầu ra đảo sinh sống, gia đình bà rất khó khăn về kinh tế, thuộc diện hộ cận nghèo của huyện Côn Đảo. Công việc chủ yếu của gia đình bà là nông nghiệp, làm chỉ đủ ăn, không có tích lũy, không bảo đảm chi tiêu cho gia đình, cuộc sống gần như bế tắc trong việc mưu sinh để nuôi hai con nhỏ.

Trong một cuộc họp khu dân cư, bà Hoa đã được nghe trưởng khu dân cư triển khai các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những vấn đề liên quan, trong đó có thông tin về các chính sách vay vốn của Đảng và Chính phủ để đầu tư, phát triển kinh tế, bà Hoa đã mạnh dạn đăng ký và nêu ra phương án đầu tư của gia đình.

Bà Hoa nhớ lại: “Được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, năm 2013, gia đình tôi đã được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ thông qua NHCSXH huyện Côn Đảo để chăn nuôi, sản xuất nhằm phát triển kinh tế gia đình. Với số vốn được vay ban đầu là 30 triệu đồng chương trình hộ cận nghèo, gia đình tôi đã mua 2 con bò để chăn nuôi, đến năm 2015, 2 con bò đẻ thêm được con bê, tôi đã trả hết nợ cho ngân hàng từ việc bán 1 con bò”.

Sử dụng đồng vốn vay từ NHCSXH, việc chăn nuôi tiến triển thuận lợi, gia đình bà Hoa đã thoát nghèo và mạnh dạn xin nâng mức vốn vay với số tiền 50 triệu đồng chương trình hộ mới thoát nghèo để tiếp tục đầu tư nuôi bò.

Năm 2017, sau khi trả được vốn vay cho NHCSXH, bà Hoa tiếp tục xin vay vốn 50 triệu đồng chương trình hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm để trồng chuối tăng thêm thu nhập. Bên cạnh đó, bà Hoa xin vay 12 triệu đồng để xây dựng hệ thống công trình nước sạch và nhà vệ sinh. Từ nguồn vốn được vay thêm cũng như việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, thu nhập của gia đình bà Hoa đã cơ bản ổn định, có kinh phí trang trải cho đời sống gia đình và chi phí học tập của 2 người con.

Đến năm 2023, do có nhu cầu mở rộng diện tích canh tác trồng chuối cũng như sửa chữa lại công trình nước sạch và nhà vệ sinh đã bị xuống cấp qua nhiều năm sử dụng, bà Hoa được vay vốn của NHCSXH với tổng số tiền 115 triệu đồng, trong đó, chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường là 20 triệu đồng; chương trình hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm là 95 triệu đồng.

Hiện tại, kinh tế gia đình bà Hoa đã vững vàng, hai người con được ăn học, có nghề nghiệp ổn định, xây dựng gia đình mới hạnh phúc.

Bà Hoa xúc động chia sẻ: “Gia đình tôi có được như ngày hôm nay là nhờ được sự giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền địa phương, của NHCSXH, các đoàn thể cũng như Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) khu dân cư số 3. Tôi nhận thấy họ đã tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động tổ viên thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quy định của NHCSXH về tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Ngoài việc vay vốn, tôi còn được chính quyền địa phương cho tham gia các chương trình khuyến nông, khuyến ngư để có thêm kiến thức về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi. NHCSXH và các hội, đoàn thể thường xuyên kiểm tra, đối chiếu trực tiếp đến hộ gia đình về mục đích, hiệu quả sử dụng vốn vay, điều này giúp cho gia đình tôi cũng như nhiều hộ gia đình khác trong khu dân cư sử dụng đồng vốn vay có hiệu quả, tạo được thu nhập cho gia đình, cải thiện cuộc sống rõ rệt sau khi vay vốn, vươn lên thoát nghèo”.

Gia đình bà Trần Thị Của, thường trú tại ấp Mỹ Hòa, xã Long Mỹ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có 4 nhân khẩu, 2 vợ chồng và 2 con gái. Gia đình bà thuộc diện gia đình chính sách, có mẹ là liệt sĩ và cha là thương binh. Kinh tế gia đình làm nông nghiệp, thu nhập chính từ làm ruộng và chăn nuôi; giai đoạn 2011 - 2015, gia đình bà Của thuộc diện hộ nghèo quốc gia, hoàn cảnh rất khó khăn.

Kinh tế gia đình bà Của đã khó khăn lại càng khó khăn hơn khi tháng 9/2010, người con gái lớn thi đỗ vào trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cần phải có một khoản tiền cho con nhập học và các chi phí sinh hoạt ở thành phố, vợ chồng bà Của nhiều đêm thức trắng, trăn trở làm cách nào để có tiền trang trải chi phí học tập cho con, hay để con gác lại giấc mơ nghề giáo mà tiếp bước mẹ cha làm công việc “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. May mắn đến với gia đình bà khi Tổ TK&VV ấp Mỹ Hòa và Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Long Mỹ tổ chức tuyên truyền, phổ biến về chính sách tín dụng cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo cũng như các đối tượng chính sách khác từ nguồn vốn vay của NHCSXH. Bà Của đã đề nghị được vay vốn chương trình học sinh, sinh viên và được NHCSXH huyện Đất Đỏ xét duyệt cho vay 24 triệu đồng trong 3 năm học.

Tháng 10/2012, người con gái thứ hai thi đỗ vào Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh sự tự hào, niềm hạnh phúc là nỗi lo rất lớn về tiền bạc đối với gia đình bà Của. 4 năm ăn học tại thành phố sẽ rất tốn kém, đặc biệt là khoản học phí. Một lần nữa, bà Của lại nhờ đến nguồn vốn NHCSXH và được xét duyệt cho vay số tiền 40 triệu đồng cho 4 năm học, hạn trả nợ cuối cùng vào năm 2021. Có nguồn vốn vay trang trải chi phí học tập, vợ chồng bà Của và các con tạm vơi đi nỗi lo lắng để chuyên tâm làm ăn, học tập.

Khi đã bớt gánh nặng tài chính để trang trải chi phí cho các con ăn học, bà Của mạnh dạn xin xét vay chương trình hộ nghèo quốc gia để tạo nguồn vốn sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế. Được Tổ TK&VV ấp Mỹ Hòa, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Long Mỹ bình xét cho vay với mức vay 30 triệu đồng, bà đã đầu tư mua 4 con bò. Nhờ cần cù, chịu khó, tích cực tham gia các lớp tập huấn, lớp đào tạo nghề do địa phương tổ chức, nắm bắt nhanh những kiến thức về chăn nuôi đi đôi với học hỏi kinh nghiệm, sau 3 năm, đàn bò phát triển tốt, sinh sản thêm được 8 bò con.

Trong khi đó, tháng 10/2013, người con gái lớn tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, trở thành giáo viên mầm non và làm việc tại một trường trên địa bàn huyện Đất Đỏ với mức lương ban đầu là 3 triệu đồng/tháng. Tuy đồng lương còn hạn hẹp, nhưng đó là thành quả tốt đẹp sau 3 năm nỗ lực học tập của con và sự hi sinh, vất vả của cha mẹ. Ý thức được trách nhiệm, ngoài giờ đi dạy, cô còn phụ giúp cha mẹ làm ruộng, chăn nuôi, tiết kiệm để trả nợ vốn vay NHCSXH.

Năm 2016, với số tiền dành dụm, tích lũy được từ chăn nuôi bò, bà Của đã trả được hết nợ cho ngân hàng và làm đơn xin ra khỏi danh sách hộ nghèo. Tuy nhiên, bà Của luôn đau đáu suy nghĩ cần phải tiếp tục mở rộng sản xuất, tăng thêm thu nhập, thoát nghèo bền vững, do đó, bà tiếp tục đề nghị vay vốn và được vay 50 triệu đồng từ chương trình hộ mới thoát nghèo để đầu tư thêm vào đàn bò, trồng thêm cây ăn trái. Nhờ đó, thu nhập của gia đình bà được nâng lên, đời sống được cải thiện hơn, có điều kiện để trả hết vốn cho ngân hàng đúng hạn, có thêm thu nhập trang trải cuộc sống. Cùng năm này, người con gái thứ hai ra trường, nhận công tác tại Văn phòng huyện Đất Đỏ, đến đầu năm 2022 chuyển công tác về Tỉnh Đoàn Bà Rịa - Vũng Tàu, công việc ổn định, phụ giúp kinh tế gia đình.

Năm 2020, bà Của tiếp tục được vay 80 triệu đồng từ nguồn vốn giải quyết việc làm để mở rộng chuồng trại, mua thêm bò cái và 20 triệu đồng để cải tạo, sửa chữa lại công trình nước sạch, công trình vệ sinh đang bị xuống cấp nhằm bảo đảm điều kiện sinh hoạt, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đến nay, thu nhập từ việc đầu tư sản xuất, chăn nuôi xoay vòng giúp gia đình bà có nguồn thu nhập ổn định, bà Của đã có đàn bò với hơn 10 con để làm vốn phát triển kinh tế, cuộc sống gia đình ngày càng khá hơn, góp phần vào việc phát triển kinh tế của xã Long Mỹ.

“Gia đình tôi rất mừng khi được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ và được NHCSXH hỗ trợ, tạo điều kiện cho vay vốn từ chương trình học sinh, sinh viên để các con có tiền trang trải chi phí học tập. Không những thế, gia đình tôi còn được vay vốn nhiều chương trình khác nữa để tăng gia sản xuất, giúp cho gia đình thoát nghèo, cuộc sống ổn định, các con đều có việc làm, tương lai tươi sáng”, bà Của chia sẻ.

Nguồn vốn tín dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước thông qua NHCSXH có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho hộ nghèo, các đối tượng chính sách khác nói chung, gia đình bà Của nói riêng được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ, có điều kiện để đầu tư phát triển sản xuất, chăn nuôi, làm ăn có hiệu quả, vươn lên thoát nghèo, từng bước ổn định và nâng cao cuộc sống, góp phần quan trọng để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

Hiệu quả từ việc người dân sử dụng nguồn vốn tín dụng chính sách để phát triển sản xuất, kinh doanh, có thu nhập, cuộc sống ổn định là minh chứng khẳng định vai trò của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội cũng như Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong công cuộc đồng hành cùng người dân nghèo vượt qua hoàn cảnh, bứt phá vươn lên thoát nghèo bằng những đồng vốn ưu đãi của Nhà nước.

Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, hoàn thành tốt nhiệm vụ giảm nghèo bền vững

Qua 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, hiệu quả của đồng vốn ưu đãi trên từng hộ vay là động lực để Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tập trung toàn lực, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW; phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ giảm nghèo bền vững.

Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, trong 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã nỗ lực, năng động, sáng tạo trong đổi mới quy trình, thủ tục, phương thức cấp tín dụng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nguồn vốn tới các đối tượng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ tín dụng chính sách của Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không quản gian nan, vất vả, luôn bám sát cơ sở từ vùng nông thôn đến hải đảo xa xôi, gắn bó với hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn và các đối tượng chính sách khác; luôn nêu cao tinh thần “thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”, tận tụy, bám sát bà con, hướng dẫn người dân vay được vốn dễ dàng, biết sử dụng vốn sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả, từng bước chuyển biến nhận thức, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Thời gian tới, Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương và Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp trong việc triển khai thực hiện tốt hoạt động tín dụng chính sách; tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp để tín dụng chính sách xã hội phát huy vai trò nhân văn trong cuộc sống, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bảo đảm an sinh trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, Chi nhánh NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền các cấp nỗ lực thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW, huy động mọi nguồn lực, chuyển tải nhanh chóng, kịp thời nguồn vốn tín dụng chính sách đến đúng các đối tượng thụ hưởng, bảo đảm hiệu quả, góp phần “chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Tú Anh (NHNN)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Hiệu quả hoạt động ngân hàng tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang

Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh An Giang (sau khi sáp nhập địa giới đơn vị hành chính với tỉnh Kiên Giang) tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong cung ứng vốn tín dụng, tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại thương Lào: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Chiến lược phát triển dịch vụ điện tử, dịch vụ số của Ngân hàng Ngoại thương Lào đã phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh xu thế tài chính số đang ngày càng lan rộng trên toàn cầu. Đồng thời, xu hướng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng nhanh cũng đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng trong việc tiếp tục nâng cao an toàn bảo mật, tối ưu hóa giao diện người dùng, mở rộng tích hợp với các hệ sinh thái thanh toán điện tử nhằm không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tài chính bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Thúc đẩy tín dụng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong thời gian qua, việc triển khai tín dụng xanh ở Việt Nam, dù đã có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Để tín dụng xanh thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh; tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên tổ chức tín dụng về công tác thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Ngành Ngân hàng đồng hành cùng đất nước trên chặng đường đổi mới và phát triển

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) - mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là dịp ôn lại truyền thống đấu tranh kiên cường và khát vọng vươn lên của dân tộc, mà còn là thời điểm nhìn lại chặng đường phát triển của các ngành, lĩnh vực then chốt, trong đó có ngành Ngân hàng.
Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Xem thêm
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng