Tín dụng chính sách xã hội - Điểm sáng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam
Xóa đói, giảm nghèo là vấn đề mà ngay từ những ngày đầu tiên thành lập đã được chính quyền cách mạng quan tâm. Đây cũng là một trong ba nhiệm vụ hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra khi đó: “Diệ...
aa

Xóa đói, giảm nghèo là vấn đề mà ngay từ những ngày đầu tiên thành lập đã được chính quyền cách mạng quan tâm. Đây cũng là một trong ba nhiệm vụ hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra khi đó: “Diệt giặc dốt, giặc đói và giặc ngoại xâm”. 76 năm qua, hệ thống chính sách để thực hiện công tác giảm nghèo ngày càng được hoàn thiện, mà một trong những công cụ hỗ trợ trực tiếp chính là tín dụng chính sách xã hội được triển khai và phát triển cùng với chặng đường 70 năm phát triển của ngành Ngân hàng. Trong đó, việc ra đời của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) được xem là một bước đột phá quan trọng với việc cho ra đời một kênh tín dụng chuyên biệt, góp phần đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần quan trọng phát triển kinh tế đất nước, hội nhập quốc tế.



NHCSXH vinh dự đón nhận danh hiệu "Anh hùng Lao động" thời kỳ đổi mới

Không để người nghèo bị bỏ lại phía sau

Phát triển kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo là chủ trương nhất quán của Đảng ta những năm qua, đặc biệt, trong quá trình đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V (Khoá VII), tháng 6 năm 1993 đã tạo một bước chuyển mới trong công tác xóa đói, giảm nghèo với việc đề ra chủ trương “Phải hỗ trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong và ngoài nước, phấn đấu tăng hộ giàu đi đôi với xóa đói, giảm nghèo...”.

Thực hiện chủ trương trên của Đảng, Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách và phương thức quản lý khác nhau về tín dụng ưu đãi đối với người nghèo như: giao cho các ngân hàng thương mại cho vay lãi suất ưu đãi đối với các tổ chức kinh tế và dân cư thuộc vùng núi cao, hải đảo, vùng đồng bào Khơ-me sống tập trung (1986 - 2002), thành lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất (1995).

Việc thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo năm 1995 là một bước tiến trong chỉ đạo, điều hành của Đảng và Chính phủ về tín dụng xóa đói, giảm nghèo. Chỉ sau 07 năm hoạt động, Ngân hàng Phục vụ người nghèo đã cho vay với tổng doanh số là 15.264 tỷ đồng; dư nợ đến ngày 31/12/2002 là 7.022 tỷ đồng. Số lượt hộ nghèo vay vốn là 7.867 nghìn lượt hộ, đã góp phần giúp cho 644 nghìn hộ thoát khỏi ngưỡng nghèo đói.

Tuy nhiên sau 07 năm hoạt động, tín dụng chính sách theo mô hình của Ngân hàng Phục vụ người nghèo đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đối tượng được vay vốn của Ngân hàng Phục vụ người nghèo chỉ bó hẹp là hộ nghèo, nhiều đối tượng chính sách khác chưa được vay vốn. Bên cạnh Ngân hàng Phục vụ người nghèo, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách khác còn được giao cho nhiều cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và ngân hàng thương mại cùng thực hiện theo các kênh khác nhau, làm cho nguồn lực của Nhà nước bị phân tán, chồng chéo, trùng lắp, thậm chí cản trở lẫn nhau. Mô hình Ngân hàng Phục vụ người nghèo đặt trong Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cản trở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong quá trình chuyển sang hạch toán kinh doanh đầy đủ và tham gia cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, nhất là khi có sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.

Trước thực tế đó, nhiệm vụ cấp bách đặt ra là phải nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách cho vay xóa đói, giảm nghèo để trên cơ sở đó tổ chức lại công tác quản lý một cách chuyên nghiệp hơn đối với loại hình tín dụng này. Năm 1997, Quốc hội khóa X ban hành Luật Các tổ chức tín dụng, tại khoản 3 Điều 4 của Luật này đã nêu rõ: “Phát triển các ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục đích lợi nhuận phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác nhằm thực hiện chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước”.

Ngày 04/10/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo nhằm tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như ngành Ngân hàng nói riêng. Hoạt động của NHCSXH được xác định như một định chế tài chính đặc thù của Nhà nước để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo.



Hiện có hơn 6,4 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác đang có dư nợ vốn tín dụng chính sách xã hội

Hoàn thiện và tối ưu hóa công cụ tín dụng chính sách

Tín dụng chính sách là một giải pháp tín dụng đầy nhân văn và sáng tạo riêng có của Đảng và Chính phủ Việt Nam để hài hòa mục tiêu vừa mở cửa thị trường phát triển kinh tế, vừa hỗ trợ được những đối tượng yếu thế có thể vươn lên hòa nhập cùng công cuộc đổi mới của đất nước, gia tăng thu nhập, kéo gần khoảng cách thu nhập giữa các khu vực, vùng miền và chênh lệch giàu nghèo. Tính ưu việt của tín dụng chính sách xã hội ngày càng được minh chứng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam vươn lên trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình trên thế giới khiến các nguồn vốn hỗ trợ từ quốc tế đối với người nghèo và đối tượng yếu thế giảm. Các hiệp ước thương mại ngày càng nhiều mở ra cơ hội cho Việt Nam hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, song cũng tạo ra những thách thức và áp lực trong việc đảm bảo an sinh xã hội khi có sự không đồng tốc trong phát triển giữa các thành phần kinh tế, bên cạnh những hộ nghèo đói, đã phát sinh những đối tượng yếu thế, nguy cơ chênh lệch mức sống ngày càng lớn, nếu không có những chính sách hỗ trợ kịp thời, đúng và đủ, khoảng cách giàu nghèo sẽ ngày càng nới rộng, người nghèo sẽ ngày càng tụt lại phía sau.

Đây cũng là điều mà khi nghiên cứu và triển khai chính sách tín dụng ưu đãi trên thực tế, Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban đại diện HĐQT NHCSXH các cấp, đứng đầu là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước kiêm Chủ tịch HĐQT NHCSXH đã nhận diện ra. Đặc biệt, HĐQT NHCSXH với 14 thành viên gồm Chủ tịch HĐQT là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, các thành viên HĐQT đều là đại diện lãnh đạo các bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ được giao, hơn ai hết, họ càng thấu hiểu thêm những khó khăn, phát sinh mới trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, từ đó hội tụ trí lực nghiên cứu, chủ động tham mưu, đề xuất kịp thời với Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành các chủ trương, chính sách đáp ứng yêu cầu tập trung nguồn lực xã hội, tăng hiệu quả sử dụng vốn và thực hiện xã hội hóa hoạt động của NHCSXH.

Cũng bởi vậy, từ 03 chương trình cho vay đơn lẻ khi mới đi vào hoạt động năm 2003, đến nay, NHCSXH đã tham mưu cho Chính phủ thực hiện hơn 20 chương trình tín dụng mang tính trợ giúp theo từng cung bậc khác nhau nhằm hỗ trợ nhu cầu phát triển kinh tế cho người nghèo, giúp họ không chỉ thoát nghèo mà cao hơn là thoát nghèo bền vững, cùng nhiều chính sách tín dụng chuyên biệt giải quyết những vấn đề bức thiết về an sinh xã hội, cũng như nhiều lần nâng mức cho vay các chương trình, nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết phát triển kinh tế của người dân và ứng biến với những rủi ro.

Đặc biệt, giai đoạn 10 năm (2011 - 2020), thực hiện Chiến lược phát triển NHCSXH, sự ra đời của 02 chương trình tín dụng là cho vay hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được coi là bước đột phá, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Cùng với hiệu ứng của các chương trình tín dụng chính sách trước đó, số hộ nghèo đã giảm mạnh từng năm, như năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo là 9,45%, giảm về 5,2% cuối năm 2015, song khi tiếp cận tiêu chí nghèo đa chiều, thì tỷ lệ hộ nghèo lại vẫn gần 10%. Cùng với đó là nguy cơ tái nghèo cao, nhất là vùng lõi nghèo thuộc Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; thiên tai, dịch bệnh luôn rình rập, kiến thức canh tác, nuôi trồng của người dân còn hạn hẹp. Vì vậy, 02 chương trình tín dụng này đã bù lấp vào những khoảng trống, góp phần đẩy nhanh hơn nữa mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Bên cạnh đó, nhiều chương trình tín dụng mới được tạo dựng ngày càng thâm nhập sâu rộng, giúp người nghèo và các đối tượng chính sách có cơ hội phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng sống như cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi...

Bên cạnh việc mở rộng các chương trình tín dụng, NHCSXH đã kịp thời tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ các chính sách huy động nguồn lực đảm bảo 100% các đối tượng chính sách có nhu cầu, đủ điều kiện vay vốn được tiếp cận nguồn vốn vay, đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng với việc lồng ghép vai trò chính quyền địa phương trên cả phương diện người cung ứng vốn, hỗ trợ người dân tạo dựng sinh kế từ nguồn vốn và giám sát hiệu quả nguồn vốn vay. Đỉnh cao của việc kết nối cả hệ thống chính trị với công cuộc giảm nghèo bền vững, đó là NHCSXH chủ động tham mưu cho Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Minh chứng có thể thấy rõ từ việc cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp địa phương không chỉ chung tay nâng cao chất lượng tín dụng chính sách, mà chủ động dành thêm nguồn vốn ngân sách ủy thác qua NHCSXH, coi đây là công cụ quan trọng trực tiếp và mang tính nền tảng để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Nguồn vốn ủy thác địa phương sau 05 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW đã tăng thêm 16.508 tỷ đồng, đưa tổng nguồn vốn ủy thác của ngân sách địa phương qua NHCSXH đến hết năm 2020 đạt 20.315 tỷ đồng.

NHCSXH còn chủ động báo cáo các bộ, ngành Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ báo cáo Quốc hội phê chuẩn bố trí nguồn vốn đầu tư công trung hạn từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 để tạo sự ổn định, chủ động trong thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn vay cho các đối tượng thụ hưởng.

Ngoài ra, NHCSXH đã xây dựng và hoàn thiện bộ máy điều hành tác nghiệp làm nhiệm vụ thường trực, tổ chức điều hành, quản lý vốn thống nhất từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo gọn nhẹ, gồm: Hội sở chính, Sở giao dịch, Trung tâm Đào tạo, Trung tâm Công nghệ Thông tin, 63 chi nhánh tỉnh, thành phố và 625 Phòng giao dịch NHCSXH cấp huyện, với cơ sở vật chất, thiết bị tin học đảm bảo ưu tiên phục vụ giao dịch tại Điểm giao dịch xã. Việc sửa đổi cơ chế quản lý tài chính đã giúp các đơn vị chủ động cân đối các khoản thu nhập, chi phí; đẩy mạnh thu nợ, thu lãi để cho vay quay vòng, tiết giảm tối đa chi phí quản lý, sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả, không để tồn đọng, lãng phí vốn, đồng thời, thúc đẩy các đơn vị tìm kiếm và mở rộng các sản phẩm dịch vụ nhằm gia tăng thu nhập, bù đắp phần thiếu hụt kinh phí quản lý theo định mức được Chính phủ giao. Kết quả, hàng năm, NHCSXH đã tiết kiệm nhiều tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước về cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý. Nếu như những năm đầu khi thực hiện Chiến lược phát triển NHCSXH (năm 2010), tỷ lệ cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý chiếm tỷ lệ 3,27%/tổng dư nợ, thì đến năm 2019, chỉ còn chiếm tỷ lệ 0,74%/tổng dư nợ (giảm 77%, bình quân mỗi năm giảm cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho ngân sách Nhà nước khoảng 432 tỷ đồng).



Mô hình điểm giao dịch xã của NHCSXH - Giao dịch tại nhà, giải ngân tại xã

Làm sâu sắc hơn phương thức quản lý vốn tín dụng chính sách đặc thù

Qua 18 năm hoạt động, NHCSXH đã khẳng định hiệu quả của một phương thức quản lý tín dụng chính sách đặc thù, ưu việt riêng có phù hợp với cấu trúc chính trị của Việt Nam. Đặc biệt, việc bổ sung Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã vào Ban đại diện HĐQT NHCSXH cấp huyện không những nâng cao vai trò quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã đối với hoạt động tín dụng chính sách, mà còn nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo hoạt động tín dụng chính sách tại cơ sở, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới và đảm bảo an sinh xã hội.

NHCSXH đã xây dựng được đội ngũ cán bộ tâm huyết, trách nhiệm, luôn đồng hành với đối tượng thụ hưởng, không quản ngại khó khăn, luôn “thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”, kết nối được ý Đảng, lòng dân.

NHCSXH áp dụng phương thức ủy thác cho vay qua các tổ chức chính trị - xã hội đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương để chuyển tải nguồn vốn tín dụng chính sách của Nhà nước đến hàng triệu người nghèo và các đối tượng chính sách khác, giúp họ biết sử dụng vốn vay, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội. Đến cuối năm 2020, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác đang phối hợp với NHCSXH tham gia quản lý 225.084 tỷ đồng, chiếm 99,5%/tổng dư nợ tín dụng chính sách xã hội.

Với cách thức “giao dịch tại nhà, giải ngân tại xã”, đến nay, NHCSXH đang quản lý gần 173 nghìn Tổ tiết kiệm và vay vốn đến 100% thôn, ấp, bản, làng, phum, sóc, tổ dân phố... trên toàn quốc, tổ chức được 10.426 Điểm giao dịch ở hầu hết các xã, phường, thị trấn; các Tổ giao dịch tại xã được trang bị đầy đủ điều kiện hoạt động của một ngân hàng đảm bảo an ninh, an toàn để phục vụ cho phiên giao dịch tại xã. Thông qua hoạt động này, NHCSXH đã cung cấp dịch vụ tiết kiệm cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác ngay tại nhà một cách tiện ích. Tại Báo cáo số 660/BC-UBTVQH13 ngày 19/5/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đánh giá: “Việc tổ chức giao dịch tại xã của NHCSXH đã tạo được hệ thống dịch vụ gần dân, thân thiện và có trách nhiệm, tiết kiệm chi phí giao dịch, đi lại cho người dân, mô hình tổ chức và hoạt động của Tổ tiết kiệm và vay vốn hỗ trợ hiệu quả cho từng hộ nghèo”.

Tất cả những nỗ lực của NHCSXH góp nên một bức tranh đầy màu sắc của hoạt động tín dụng chính sách trong 18 năm qua. Chỉ nói riêng 8 năm đầu hoạt động (2003 - 2010), tổng doanh số cho vay các chương trình tín dụng chính sách do NHCSXH quản lý đạt hơn 146.285 tỷ đồng, giúp cho 2,1 triệu hộ thoát nghèo. Đặc biệt, việc thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển NHCSXH giai đoạn 2011 - 2020 đã đưa nguồn vốn tín dụng chính sách tiếp tục được đầu tư đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước, đã có trên 21,5 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn, với doanh số cho vay các chương trình tín dụng chính sách đạt 504.565 tỷ đồng. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi đã phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội, giúp gần 3,7 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước; thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị, trật tự xã hội, an ninh quốc phòng; tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp lực lượng, phát triển hội viên; góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% xuống 4,25%; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% (năm 2016) xuống còn 3,75% (năm 2019), xuống dưới 3% (năm 2020).

Hiệu ứng tín dụng chính sách sẽ tiếp tục rõ nét hơn trong những năm tiếp theo trên cơ sở kết quả đạt được tính đến ngày 31/12/2020, tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt 226.197 tỷ đồng, đang hỗ trợ cho hơn 6,4 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách. Với những thành tích đạt được trong thời gian qua, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, NHCSXH đã được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động” thời kỳ đổi mới.

Đã đến lúc cần có bước đột phá mới

Bước sang giai đoạn mới 2021 - 2030, NHCSXH khẩn trương xây dựng Chiến lược phát triển NHCSXH giai đoạn 2021 - 2030 với trọng tâm xuyên suốt là đảm bảo xây dựng hệ thống tín dụng chính sách xã hội tiếp tục phát huy vai trò là giải pháp quan trọng thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trên cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia được phê duyệt, NHCSXH sẽ xây dựng mục tiêu cụ thể. Trong đó, dự kiến tăng trưởng vốn tín dụng bình quân hàng năm khoảng 10%. NHCSXH đặt mục tiêu cơ cấu lại nguồn vốn theo hướng ổn định, tự chủ, trong đó: (i) Nguồn ngân sách Nhà nước cấp theo lộ trình đến năm 2025 đạt 40%/tổng nguồn vốn, tiến tới đến năm 2030 đạt 50%/tổng nguồn vốn. Nguồn lực cấp cho NHCSXH được tổng hợp vào vốn đầu tư công trung hạn theo Luật Ngân sách Nhà nước và Luật Đầu tư công. Phấn đấu đến năm 2030, nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương chiếm 15%/tổng nguồn vốn; (ii) Tăng nguồn vốn huy động, trong đó, nguồn vốn từ phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh đến năm 2025 chiếm 25%/tổng nguồn vốn, tiến tới đến năm 2030 chiếm 30%/tổng nguồn vốn.

NHCSXH tiếp tục đặt mục tiêu thực hiện tốt các chương trình tín dụng chính sách xã hội được Chính phủ giao và các chương trình tín dụng do các địa phương, các tổ chức, đơn vị ủy thác vốn. Đảm bảo 100% đối tượng chính sách xã hội có nhu cầu, đủ điều kiện được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, phát huy hiệu quả theo mục tiêu các chương trình tín dụng.

NHCSXH cũng đặt mục tiêu hoàn chỉnh mô hình tổ chức mang tính đặc thù với sự tham gia của bộ, ban, ngành, chính quyền cơ sở từ Trung ương tới địa phương; đổi mới công nghệ, tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng đối với khách hàng và hiện đại hóa công tác quản trị điều hành của NHCSXH.

Tuy nhiên, để tín dụng chính sách phát huy hiệu quả hơn nữa, đề nghị Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và cấp ủy, chính quyền các địa phương tiếp tục quan tâm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội theo Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định 401/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tập trung nguồn lực cho tín dụng chính sách và thống nhất chức năng tín dụng chính sách từ các tổ chức vào một đầu mối NHCSXH; bố trí nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước theo kế hoạch đầu tư trung hạn cho NHCSXH và kịp thời bố trí nguồn vốn để cho vay đối với các chương trình tín dụng chính sách mới được ban hành; mở rộng hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, tạo điều kiện cho NHCSXH huy động nguồn vốn có kỳ hạn dài, ổn định, đáp ứng nguồn vốn cho các chương trình tín dụng chính sách.

NHCSXH cũng sẽ tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội trong chỉ đạo lồng ghép giữa tín dụng chính sách với các hoạt động khuyến công, khuyến nông, hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm... Đồng thời, đề nghị các bộ, ngành khi tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao thêm nhiệm vụ thực hiện các chương trình tín dụng chính sách cho NHCSXH cần bố trí nguồn lực tương ứng để thực hiện chương trình tín dụng chính sách.

Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, cùng thực hiện triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền, giám sát, cần tăng cường chỉ đạo tổ chức hội các cấp thực hiện tốt các nội dung công việc nhận ủy thác; phối hợp chặt chẽ với NHCSXH trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách; phát động các phong trào thi đua gắn chất lượng tín dụng nhận ủy thác với tiêu chí thi đua trong hệ thống của tổ chức chính trị - xã hội, tạo động lực thi đua thực hiện tốt hoạt động ủy thác cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Đối với cấp ủy, chính quyền địa phương, Ban đại diện HĐQT các cấp, cùng với việc thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, cần tiếp tục quan tâm, dành một phần vốn ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác ủy thác sang NHCSXH để cho vay các đối tượng chính sách xã hội hoặc theo các chương trình, dự án chỉ định của địa phương; hỗ trợ về cơ sở vật chất, địa điểm, trang thiết bị, phương tiện làm việc nhằm nâng cao năng lực hoạt động của NHCSXH. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, tiêu thụ sản phẩm; định hướng sản xuất cây trồng, vật nuôi nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội; thường xuyên điều tra, rà soát, xác nhận đối tượng thụ hưởng để tạo điều kiện cho các đối tượng này được vay vốn kịp thời, đúng đối tượng, phát huy tối đa hiệu quả từng đồng vốn góp phần phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, đảm bảo an sinh xã hội, từ đó thúc đẩy kinh tế đất nước tiến nhanh và chắc trong hành trình hội nhập và phát triển.


TS. Dương Quyết Thắng


Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2021


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Ở trong nước, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng tăng trưởng kinh tế trên đà phục hồi, các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024.
Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank là ngân hàng tiên phong dành nguốn vốn 50.000 tỉ đồng để triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến,...
Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; ...
Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.
Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)... Trụ sở NHNN...
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập (6/5/1951 - 6/5/2021). Trong 70 năm xây dựng và phát triển, toàn Ngành luôn nỗ lực, vượt qua nhiều gian nan, thử thách, đạt được nhiều thành...
35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

Quá trình cải cách khu vực ngân hàng đi liền với sự đổi mới thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2021, ngành Ngân hàng...
Xem thêm
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc