Tiết kiệm, chống lãng phí - nhìn từ góc độ thể chế

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trong bài viết “Chống lãng phí”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: Trước yêu cầu tăng cường nguồn lực, khơi dậy sức dân đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác phòng, chống lãng phí đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới rất khẩn trương, cấp bách...
aa

Lãng phí là bạn đồng hành của tham nhũng. Một quốc gia, ngay cả một cá nhân cũng không thể giàu hoặc giàu bền vững khi mà mặc sức lãng phí, không biết tiết kiệm!

Sinh thời, V.I. Lênin đã căn dặn: “Chúng ta phải thực hành tiết kiệm tột mức trong bộ máy nhà nước của chúng ta”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nhấn mạnh: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ…; Tham ô có hại, nhưng lãng phí có khi còn hại nhiều hơn!”

Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí sớm được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo với hàng loạt chỉ thị, nghị quyết, kết luận của các cấp lãnh đạo và luật định về phòng, chống lãng phí, tiêu biểu như Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương (khóa X); Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 21/12/2012 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005 và năm 2013 của Quốc hội. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước”.

Trong bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhan đề “Chống lãng phí” đã khẳng định: Trước yêu cầu tăng cường nguồn lực, khơi dậy sức dân đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác phòng, chống lãng phí đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới rất khẩn trương, cấp bách...

1. Nhận diện biểu hiện, nguyên nhân và hệ lụy lãng phí

Lãng phí là việc sử dụng không hiệu quả của cải, vật chất xã hội vào một công việc, bất kể đó là việc công hay việc riêng.

Lãng phí là việc “làm tốn kém, hao tổn một cách vô ích” (từ điển tiếng Việt thông dụng), hoặc là “làm một cách vô ích tiền tài, sức lực, thời gian” (từ điển Hán Việt).

Theo Điều 3 Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013, lãng phí là việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định.

Trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam có rất nhiều câu răn dạy lối sống cần kiệm: Bát ăn bát để (phải biết dè sẻn, tích lũy); Thắt lưng buộc bụng (tiết kiệm, không tiêu xài hoang phí); Bóp mồm, bóp miệng (hạn chế hết mức việc chi tiêu chưa cấp thiết); Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm (biết chi tiêu hợp lý, làm ăn có kế hoạch thì sẽ được no đủ); Làm khi lành để dành khi đau (khi trẻ, khỏe phải biết dành dụm phòng khi già, yếu); Tích tiểu thành đại (kiên trì dành dụm thì sẽ đủ đầy); Ở đây một hạt cơm rơi, ngoài kia bao hạt mồ hôi thấm đồng (kiếm tiền khó khăn nên phải biết chi tiêu hợp lý)…

Lối sống tiết kiệm xuất phát từ triết lý sống của người Việt rằng, mỗi người phải có trách nhiệm với mình, gia đình, xã hội và các thế hệ mai sau. Mặc dù vậy, người Việt xưa chú ý tiết kiệm trong tiêu dùng hơn là tiết kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong sinh hoạt cá nhân hơn là tiết kiệm trong các sinh hoạt khác liên quan đến cộng đồng, nhất là không có thói quen tiết kiệm thời gian...

Ngày nay, lối sống tiết kiệm trong truyền thống của dân tộc ta cần được kế thừa gắn với đổi mới trong quan niệm về tiết kiệm cho phù hợp với đời sống của xã hội hiện đại và điều kiện phát triển của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay, việc nâng cao ý thức tiết kiệm, tích lũy để mở rộng sản xuất vẫn đóng vai trò tích cực với việc nâng cao năng suất lao động, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cuộc sống đa dạng của con người.

Tiết kiệm không phải là khuyến khích giảm thiểu nhu cầu, mà chính là nâng cao khả năng thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người với cùng một khoản chi phí. Tiết kiệm theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” chứ không phải là bủn xỉn. “Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm”.

Ngày 25/12/2023, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 27-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Theo đó, Chỉ thị yêu cầu: Quán triệt, nâng cao nhận thức; thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là văn hóa ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Tuy vậy, thực tế Việt Nam cho thấy, lãng phí vẫn còn diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, phức tạp và ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội, trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng nghiêm trọng cho sự phát triển của đất nước, nổi bật là:

Thứ nhất, lãng phí trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật

Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật còn có một số biểu hiện và căn nguyên gây lãng phí, như: Tiến độ và chất lượng văn bản quy định pháp lý cũng như một số hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, thậm chí chất lượng thấp, chậm ban hành và chậm được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính rườm rà, dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện và thông suốt, bộ máy nhà nước có nơi, có lúc hoạt động kém hiệu năng, thiếu phối hợp, còn một bộ phận cán bộ nhũng nhiễu, thiếu năng lực, sợ trách nhiệm, né tránh, đùn đẩy công việc…

Sự chậm trễ ban hành văn bản và tháo gỡ các vướng mắc cần thiết, hoặc chậm điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản đã không còn phù hợp với thực tế đều có thể gây ra các lãng phí xã hội và gây tăng chi phí cơ hội lớn đối với doanh nghiệp và người dân, đồng thời, làm giảm hiệu quả điều hành của Chính phủ.

Một bộ phận cán bộ mắc bệnh thành tích, tư duy nhiệm kỳ, tư duy chủ quan, tâm lý coi nhẹ việc chống lãng phí, coi lãng phí là hành vi cần khắc phục, chưa phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hoặc chỉ chú ý chống lãng phí trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, mà không đánh giá hết sự lãng phí về cơ hội và thời gian...

Cần nhấn mạnh rằng, việc tuyển dụng và bổ nhiệm một cán bộ thiếu năng lực và trách nhiệm công vụ sẽ mang lại sự lãng phí ghê gớm trong nhiều thập kỷ khó tính được bằng tiền, mà quy mô sẽ tỉ lệ thuận với độ cao, độ dài trong cương vị và thời gian mà cán bộ đó nắm giữ trong bộ máy công quyền.

Thứ hai, lãng phí trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tài sản công

Sự lãng phí còn gắn với tình trạng không ít dự án đầu tư công được xây dựng vội vàng, thiếu căn cứ khoa học, thực tiễn hoặc chất lượng thấp, chậm triển khai cả trong khâu lập chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thiết kế kỹ thuật và xây dựng, lỏng lẻo trong quản lý và khai thác sử dụng sau hoàn thành làm đội vốn hoặc tăng chi phí bảo dưỡng, bảo trì; với việc trì trệ, không tính đúng, tính đủ trong cổ phần hóa, xử lý thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước; với tình trạng bỏ hoang hoặc sử dụng sai mục đích trong quá trình sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước, các dự án sử dụng nhiều tài nguyên đất và nước; với tình trạng đầu tư và thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia, các gói tín dụng hỗ trợ phát triển an sinh xã hội không đồng bộ, còn chậm và thiếu giám sát.

Hơn nữa, sự lãng phí còn biểu hiện ở tính không tuân thủ quy trình xây dựng, biểu hiện rõ nhất ở cảnh “kẻ đào - người lấp” khi làm hè, đường giao thông và trong quản lý đô thị diễn ra kéo dài, phổ biến, đúng quy trình riêng lẻ ở các cấp và địa phương, mà không có ai chịu trách nhiệm…

Thứ ba, lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức

Trong nhiều hoạt động tiêu dùng, sản xuất và đời sống sinh hoạt xã hội, còn quá nhiều biểu hiện hoang phí các nguồn tài nguyên đất đai, nguyên liệu, năng lượng, tài chính vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, hoặc để chạy theo thành tích hoặc phô trương, hình thức, bất chấp hiệu quả…

Căn nguyên sâu xa của việc lãng phí của công và trong xã hội chính là quán tính cơ chế xin - cho, lối sống thực dụng, ích kỷ và tâm lý “cha chung không ai khóc”, dẫn đến việc mỗi người chỉ quan tâm nhất đến quyền lợi vật chất của cá nhân mình, bất chấp lợi ích tập thể và lợi ích chung quốc gia. Đồng thời, thiếu các chế tài đủ mạnh, cơ chế quản lý đủ hấp dẫn để phòng, chống lãng phí, đề cao tiết kiệm.

Tất cả những bất cập thể chế trên đây đã, đang và sẽ tiếp tục làm suy giảm năng lực, hiệu lực và hiệu quả thể chế; làm tăng chi phí cơ hội cả về thời gian, công sức và tài chính, cũng như tạo khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực xã hội, lãng phí cơ hội đầu tư và cơ hội phát triển, giảm hiệu quả sản xuất của người dân, doanh nghiệp, địa phương và của đất nước; làm tăng cơ hội tham nhũng và suy kiệt nguồn lực xã hội, cả tài chính và tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tạo rào cản vô hình trong thu hút đầu tư nước ngoài, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước, hạn chế sức cạnh tranh cả vi mô và vĩ mô, làm suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước và chế độ…

Còn nhiều khu “đất vàng” bị bỏ hoang gây lãng phí tài nguyên đất đai
Còn nhiều khu “đất vàng” bị bỏ hoang gây lãng phí tài nguyên đất đai

2. Những đột phá thể chế cần có để thúc đẩy tiết kiệm, phòng, chống lãng phí

Thực tiễn đòi hỏi công tác phòng, chống lãng phí cần được triển khai quyết liệt, đồng bộ với những trọng tâm sau đây:

Thứ nhất, thống nhất nhận thức và xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí

Thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng văn hóa tiết kiệm, ý thức tiết kiệm chống lãng phí trong từng cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và gia đình; đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng và tuyên truyền, nâng cao nhận thức, củng cố ý thức, trách nhiệm từng cán bộ, đảng viên và người lao động, nhất là người đứng đầu cả khu vực công, khu vực tư, tạo dư luận rộng rãi đồng thuận, ủng hộ và tự giác, tự nguyện thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, coi chống lãng phí gắn với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thực sự là cuộc chiến chống “giặc nội xâm”, là hành động yêu nước của công dân và cán bộ, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, coi việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là nhiệm vụ hằng ngày, tự nhiên và bắt buộc, là trách nhiệm và đạo đức xã hội gắn với thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật.

Tiết kiệm, chống lãng phí phải được thể hiện rõ nét qua những quy chế, cam kết, kế hoạch, có lãnh đạo, có chỉ tiêu cụ thể, tiến hành thường xuyên, triệt để và cần được đưa vào yêu cầu đánh giá hoàn thành nhiệm vụ và là mục tiêu cho các cuộc vận động, phong trào thi đua về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo khí thế thi đua sôi nổi, rộng khắp trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Đưa nội dung cụ thể chống lãng phí đối với từng ngành, từng lĩnh vực, từng cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức... vào trong các cuộc sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề, trong quá trình triển khai nhiệm vụ chính trị của chính cơ quan, tổ chức, ngành, lĩnh vực. Đồng thời, tổ chức kiểm tra, giám sát thường xuyên, đặc biệt là kiểm tra, giám sát kịp thời khi có ý kiến phản ánh của người dân về tình trạng lãng phí. Đặc biệt, nội dung thực hành tiết kiệm cần trở thành một trong những tiêu chí đánh giá, xếp loại quan trọng nhất của năm ở mỗi cơ quan, đơn vị; có hình thức xử lý kịp thời theo mức độ đối với tình trạng lãng phí…

Kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong thực hiện tốt công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đồng thời, xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể gây thất thoát, lãng phí tài sản công.

Đặc biệt, cần sớm ban hành quy định của Đảng nhận diện cụ thể những biểu hiện lãng phí trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên; quy định vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác phòng, chống lãng phí; xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống lãng phí.

Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo hướng tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho giám sát, kiểm tra, phát hiện, xử lý mạnh, có tính răn đe cao đối với các hành vi lãng phí; xây dựng cơ chế thực sự hữu hiệu cho giám sát, phát hiện lãng phí của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân. Đẩy mạnh phát hiện, xử lý nghiêm minh các vi phạm gây lãng phí lớn tài sản công theo tinh thần “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”.

Thứ hai, nâng cao chất lượng thể chế, xây dựng Nhà nước, Chính phủ hiệu quả

Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi thông nguồn lực, giải quyết, khắc phục điểm nghẽn, mở rộng không gian, tạo đà cho phát triển.

Thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm tối đa thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ của người dân, doanh nghiệp, chống bệnh quan liêu và giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực. Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hoàn thiện các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ thực tài và hiệu quả.

Đặc biệt, trong quản lý nhà nước, không chỉ coi trọng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, đầu tư công hiệu quả, mà còn cần nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp trên cơ sở chủ động tham chiếu và vận dụng kinh nghiệm quốc tế về tổ chức bộ máy của Chính phủ; làm rõ và phân định rõ địa vị pháp lý, trách nhiệm, phân cấp, phân quyền, yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ từng vị trí công tác trong từng đơn vị và giữa các cơ quan, bộ phận thật đồng bộ, hợp lý, liên thông, gắn kết nhau; làm rõ phạm vi quản lý đa ngành, đa lĩnh vực của một số bộ, ngành, nhất là những bộ, ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, trùng lắp; kiên quyết cắt bỏ sự cồng kềnh, các tầng nấc, đầu mối và các khâu trung gian “ăn theo” không cần thiết, bảo đảm tính đảng, tính hợp lý, tính hợp pháp, tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; vừa phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và vai trò tự quản của địa phương, đơn vị, vừa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo và song trùng về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực; giảm thiểu tính ôm đồm, bao biện làm thay; tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện, gắn tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát, cải cách tối đa thủ tục hành chính. Có cơ chế kiểm soát hiệu quả việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước; quy trình xây dựng pháp luật chặt chẽ, khoa học, dân chủ để chính sách, pháp luật thể hiện được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thu hút mọi nguồn lực cho sự phát triển; nhưng cũng phải linh hoạt để kịp thời phản ứng chính sách, có giải pháp xử lý kịp thời các vấn đề thực tiễn phát sinh làm chậm sự phát triển theo nguyên tắc bảo vệ, bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc là trước hết và trên hết; phân công “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ sản phẩm, rõ hiệu quả” trong quy trình công tác, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; tăng cường kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”; tăng cường đồng thời 2 yếu tố: Đức trị và pháp trị; đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; gắn tinh gọn bộ máy với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, chuẩn hóa chức danh và xác định vị trí việc làm theo khung tiêu chuẩn, tiêu chí ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại hình; tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, “vì việc tìm người”; coi trọng sử dụng người có năng lực nổi trội, chủ động, sáng tạo và trách nhiệm công vụ cao; coi trọng chất lượng tham mưu, đề xuất và năng lực điều phối, hướng dẫn, tổ chức thực hiện; thanh lọc kịp thời những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Nâng cao chất lượng, tinh thần trách nhiệm và kỷ cương công vụ, khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm; tăng cường phân cấp quản lý và sự phối hợp giữa và ngay trong nội bộ các cơ quan, cấp, ngành và địa phương theo tinh thần trên - dưới đồng lòng, dọc - ngang thông suốt, đảm bảo rõ người, rõ việc, rõ quy trình, rõ thời gian và mục tiêu, kết quả nhiệm vụ được giao; xóa bỏ các rào cản chính sách, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất kinh doanh, sự chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán và các biểu hiện lợi ích cục bộ trong xây dựng và thực thi chính sách, xóa bỏ sự bất bình đẳng trong tiếp cận và tạo bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nguồn lực xã hội; bảo đảm hài hòa lợi ích và sự gắn kết các mục tiêu ngắn hạn, trung và dài hạn, biết tạo lập môi trường, sử dụng đồng bộ, linh hoạt và thành thạo các công cụ chính sách, sự tôn trọng, bảo hộ pháp lý, tạo thuận lợi, giảm thiểu mọi chi phí kinh doanh và tuân thủ, bảo đảm sự đầy đủ, thông suốt, minh bạch của thông tin, các dịch vụ đầu tư và sự cạnh tranh lành mạnh thị trường; tạo môi trường đầu tư cởi mở, thân thiện, phục vụ thuận lợi, an toàn, bình đẳng, giảm thiểu mọi chi phí cơ hội cho doanh nhân, doanh nghiệp phát triển và cống hiến, bảo đảm quyền đầu tư, kinh doanh của người dân, lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, không hình sự hóa các quan hệ kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi và giải quyết kịp thời các vướng mắc, khiếu nại, kiến nghị của doanh nghiệp, người dân trong đời sống kinh tế - xã hội.

Thực tế cho thấy, sự lãng phí trong công tác hành chính quá bé nhỏ nếu so với lãng phí của sự trì trệ, thiếu năng lực và trách nhiệm, gây ách tắc làm cho một bộ phận lực lượng sản xuất lớn đóng băng, không tạo ra của cải cho xã hội hoặc bỏ lỡ cơ hội đầu tư, tăng chi phí tuân thủ, chi phí thị trường của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Đó mới là điều cần cải tổ trong cuộc cách mạng Chính phủ hiệu quả.

Thực tế đã, đang và sẽ chứng tỏ, không thể có Chính phủ hiệu quả chỉ với mệnh lệnh cắt giảm nhân sự, giao việc cho cán bộ đương nhiệm nhiều hơn, nhưng không có cải thiện đáng kể về chính sách đãi ngộ và sử dụng người tài trong bộ máy quản lý Nhà nước các cấp, các lĩnh vực. Với mức lương của cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước quá thấp thì Chính phủ khó chọn và giữ chân được người tài, khó ngăn nạn chảy máu chất xám và sẽ xảy ra tình trạng "ăn cắp" thời gian hoặc dễ nhũng nhiễu, tiêu cực. Bởi vậy, cần gắn kế hoạch cắt giảm nhân sự bộ máy với lộ trình nâng mức lương theo vị trí việc làm và kết quả công tác theo tương quan tỉ lệ nghịch, càng ít cán bộ thì lương càng cao để cán bộ nhà nước yên tâm làm việc, có đủ lương để trang trải cuộc sống.

Cần nhấn mạnh rằng, nâng cao chất lượng và bảo đảm sự minh bạch, lành mạnh của hệ thống pháp luật, tạo niềm tin cho cán bộ nhà nước làm việc cũng là điểm tiên quyết và kiên quyết phải làm để khắc phục tình trạng né tránh, sợ và đánh bóng trách nhiệm kéo dài và khá phổ biến thời gian qua.

Đồng thời, nên nghiên cứu xây dựng, áp dụng KPI như doanh nghiệp khi triển khai chủ trương xây dựng vị trí việc làm và tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ cho từng vị trí công tác, cho từng bộ, ngành, từng địa phương trong hệ thống chính trị gắn trách nhiệm chính trị và thực hiện chế độ thưởng, phạt nghiêm minh, thậm chí đưa vào Bộ luật Hình sự đối với những cán bộ làm chậm tiến độ giải quyết công việc. Lấy việc hoàn thành nhiệm vụ KPI làm tiêu chí để đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.

Ngoài ra, chú ý lựa chọn các lãnh đạo doanh nghiệp xuất sắc vào bộ máy chính trị hoặc tham gia tổ tư vấn cho Chính phủ. Sử dụng thuế đất và thuế lũy tiến cao, cả những biện pháp hành chính phù hợp để buộc những người muốn giữ nhiều đất, những dự án, quỹ đất “lười”, không sinh lời phải nộp thuế, nhanh chóng đưa đất vào kinh doanh, hoặc phải chuyển nhượng, chống sự đầu cơ, chây ỳ, tăng khả năng sinh lời cho quốc gia. Trên thực tế lãng phí từ nguồn lực đất đai này cũng lớn gấp rất nhiều lần lãng phí hành chính.

Chính phủ hiệu quả là chính phủ điều hành đất nước bằng những hệ thống chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa và ngoại giao... đồng bộ, phù hợp, làm cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, chính trị ổn định, niềm tin của người dân vào chính quyền lớn, đồng lòng, đoàn kết và quan hệ ngoại giao tốt.

Cuộc cách mạng tinh gọn về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tạo hứng khởi và niềm tin cho doanh nghiệp vừa là mục tiêu, nhiệm vụ, vừa là giải pháp tạo động lực thể chế quan trọng để mọi người dân Việt Nam, trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh, với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao (trên 12.050 USD/năm theo chuẩn hiện nay của thế giới), mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu; xây dựng thành công một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hiện thực hóa khát vọng hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu theo di nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm và Chính phủ hiệu quả, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân có nhiều cơ sở để kỳ vọng và dốc lòng, dốc sức góp phần kiên quyết phá bỏ những rào cản, sự trì trệ để phát triển đất nước giàu mạnh, nâng vị thế quốc gia trên trường quốc tế./.

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.357; t.11, tr.110.

2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t1, tr.92, 93.

3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.12.

4. V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.45, tr.458, 459.

5.https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie

6. https://www.xaydungdang.org.vn/van-kien-tu-lieu/bai-viet-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-phat-huy-tinh-dang-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-21847

7. https://baotintuc.vn/thoi-su/khac-phuc-tinh-trang-lang-phi-trong-bo-may-cong-quyen-20241104115127512.htm

TS. Nguyễn Minh Phong
Hà Nội

Tin bài khác

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Trong bối cảnh không gian mạng trở thành phần tất yếu của đời sống xã hội, việc xây dựng “thế trận số” vững chắc và chủ động làm chủ truyền thông số là yêu cầu chiến lược để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và lan tỏa các giá trị đúng đắn, tích cực trong xã hội.
Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển bùng nổ của công nghệ, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đối diện với thách thức chưa từng có từ những “cơn bão” thông tin sai lệch, xuyên tạc trên môi trường số.
Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Trong kỷ nguyên số, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp thiết và mang tính chiến lược hơn, đòi hỏi tư duy đổi mới, cách tiếp cận hệ thống, gắn kết giữa “xây” và “chống”, giữa “thế trận lòng dân” và “thế trận số”.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Xem thêm
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô