Thế giới thay đổi bởi đại dịch Covid-19

Nghiên cứu - Trao đổi
Dịch bệnh Covid-19 kéo dài làm tăng khó khăn cho các chính phủ trước các áp lực lạm phát, nợ xấu, nợ công và đảm bảo an sinh xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới Thúc đẩy cơ cấu lại các chuỗi ...
aa

Dịch bệnh Covid-19 kéo dài làm tăng khó khăn cho các chính phủ trước các áp lực lạm phát, nợ xấu, nợ công và đảm bảo an sinh xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới

Thúc đẩy cơ cấu lại các chuỗi cung ứng và lao động

Thời gian qua, trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, thế giới có nhiều thay đổi theo các giai đoạn trước Covid-19 và hậu Covid-19; dự báo sẽ còn nhiều thay đổi hơn nữa sau đại dịch Covid-19.

Đại dịch Covid-19 kéo dài với nhiều diễn biến khó lường, chưa rõ nguyên nhân và chưa có thuốc đặc trị chính thức, cũng như chưa thể có thời gian và triển vọng kết thúc… Tuy nhiên, dịch bệnh Covid-19 đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, gây tác hại toàn diện cho trên 205 quốc gia, vùng lãnh thổ toàn thế giới cả về kinh tế và xã hội, từ cấp vĩ mô đến vi mô, trước mắt cho đến lâu dài… bởi những biện pháp đã, đang và sẽ còn áp dụng, đặc biệt là biện pháp giãn cách/cách ly xã hội và đóng cửa biên giới quốc gia.

Thế giới đang đối diện cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nghiêm trọng nhất kể từ cuộc Đại suy thoái giữa những năm 1930 và không giống bất kỳ cuộc khủng hoảng nào trước đây. Dịch bệnh khiến nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng; giảm cả tổng cầu và tổng cung xã hội, làm chậm nhịp độ tăng trưởng, làm gián đoạn và đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu lâu hơn dự kiến; cũng như làm tăng khó khăn cho các chính phủ trước các áp lực lạm phát, nợ xấu, nợ công và đảm bảo an sinh xã hội ở hầu hết các quốc gia, từ các nước phát triển cho đến cả các nước kém phát triển nhất thế giới.

Trong giai đoạn 2020 - 2022, nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với mức mất thu nhập lũy kế khoảng 13 nghìn tỷ USD. Nếu nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng như vào đầu những năm 2000 (khoảng 3,5% mỗi năm) thì phải đến năm 2030 mới có khả năng lấy lại mức trước đại dịch. Theo IMF, năm 2020, GDP toàn cầu tăng trưởng âm 4,2 - 4,4%; thương mại toàn cầu giảm hơn 10%; vốn FDI đã giảm khoảng 40%; “đốt” 41% tài chính, tương đương 157 tỷ USD giá trị vốn hóa của 116 hãng hàng không niêm yết trên toàn thế giới. Nợ công thế giới tăng vọt, hiện hơn 103% GDP toàn cầu; dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2021 là 5,9% và năm 2022 là 4,9%. Đại dịch Covid-19 đã khoáy sâu sự mong manh tiềm tàng của chuỗi cung ứng toàn cầu và khiến dòng FDI toàn cầu ước giảm từ 30 - 40% trong giai đoạn 2020 - 2021, có liên quan rất chặt chẽ đến việc gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu do hậu quả của đại dịch, nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan đến dịch vụ hàng không, khách sạn, nhà hàng, vui chơi giải trí, cũng như các ngành sản xuất và lĩnh vực năng lượng.

Đại dịch Covid-19 còn thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế thế giới theo hướng coi trọng hơn thị trường và củng cố các chuỗi cung ứng ở mỗi nước; tái định hình và dịch chuyển một số chuỗi sản xuất quốc tế trở lại chính quốc hoặc rời khỏi những vùng bị dịch bệnh và giãn cách xã hội kéo dài; thúc đẩy chuyển đổi số trong cả quản lý và sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối và các hoạt động xã hội truyền thống khác. Hoạt động thương mại điện tử, làm việc, hội họp, học tập, tư vấn và kể cả vui chơi giải trí từ xa… ngày càng trở nên phổ biến.

Cùng với đó, dịch bệnh và quá trình tái cơ cấu kinh tế cũng đe dọa và làm đứt gãy chuỗi cung ứng lao động, giảm việc làm, giảm thu nhập, tăng thất nghiệp, bất bình đẳng và nghèo đói trên toàn cầu nói chung và khu vực các nước đang phát triển nói riêng. Ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho thấy, tỷ lệ việc làm trên dân số toàn cầu giảm từ 57,6% năm 2019 xuống 54,9% năm 2020; giờ làm việc ở các nước đều suy giảm trong năm 2020 - 2021 và quá trình phục hồi không chắc chắn, không đồng đều giữa các ngành và nền kinh tế là một vấn đề đáng lo ngại cho các nhóm lao động thế giới. Vì vậy, nguy cơ làm gia tăng bất bình đẳng giữa các giới, nhóm tuổi và các thành phần trong xã hội (nhất là đối với nhóm lao động có kỹ năng thấp và thanh niên) là kịch bản chung của kinh tế thế giới trong thời gian tới. Riêng năm 2021, thế giới đã có thêm khoảng 65 - 75 triệu người thất nghiệp và rơi vào cảnh nghèo đói cùng cực. Theo IMF, các nước có thu nhập thấp cần thêm 250 tỷ USD để chống dịch và giành lại mức tăng trưởng kinh tế trước khi bùng phát dịch. Đồng thời, các nước đang phát triển sẽ còn đối diện với thách thức "bất cân bằng lớn về vaccine", khiến 96% dân số chưa được tiêm phòng, dẫn đến tăng trưởng thấp hơn trong thời gian dài, nghèo đói gia tăng và nguy cơ lạm phát tăng vọt.

Dịch bệnh Covid-19 không chỉ đã cướp đi hơn 5 triệu sinh mạng, mà còn gây hại lâu dài về sức khỏe thể chất và tâm thần của hàng trăm triệu người, cả lãnh đạo quốc gia, tổng thống, quốc vương, người giầu, người nghèo, người cao tuổi hay trẻ em, cá nhân và cộng đồng; đồng thời, khiến ước mong quay trở lại cuộc sống bình thường của người dân trở nên xa xôi hơn bao giờ hết.

Thúc đẩy kinh tế số, doanh nghiệp số, chính phủ số và xã hội số

Dịch bệnh Covid-19 đã khiến các căng thẳng thương mại được xoa dịu hơn trong ngắn hạn, đồng thời mở ra những cơ hội mới cho các quốc gia biết nắm bắt cơ hội.

Sự kéo dài của dịch bệnh Covid-19 đã tác động mạnh mẽ đến lưu lượng truy cập Internet, vì hầu hết các hoạt động ngày càng diễn ra trực tuyến. Trong bối cảnh đó, băng thông Internet toàn cầu đã tăng 35% vào năm 2020, mức tăng lớn nhất trong một năm kể từ năm 2013. Người ta ước tính rằng, khoảng 80% lưu lượng truy cập Internet liên quan đến video, mạng xã hội và chơi game. Lưu lượng dữ liệu toàn cầu hàng tháng dự kiến sẽ tăng từ 230 exabyte vào năm 2020 lên 780 exabyte vào năm 2026. Năm 2021, chứng kiến sự bùng nổ của nền kinh tế số, thể hiện qua lượng dữ liệu cực lớn được luân chuyển trên hệ thống Internet. Một dự báo cho rằng lưu lượng truy cập Giao thức Internet (IP) toàn cầu vào năm 2022 - trong nước và quốc tế - sẽ vượt tất cả lưu lượng Internet năm 2016.

Quy mô của thị trường Internet vạn vật - Internet of Things (IoT) toàn cầu là 308,97 tỷ USD vào năm 2020. Dự kiến thị trường sẽ tăng từ 381,30 tỷ USD vào năm 2021 và lên 1,85 nghìn tỷ USD vào năm 2028, tăng trưởng hàng năm sẽ là 25,4% trong giai đoạn 2021 - 2028. Chi tiêu trên toàn thế giới cho IoT đã bị tác động tiêu cực bởi đại dịch, mặc dù dự kiến ​​sẽ quay trở lại mức tăng trưởng hai con số trong trung và dài hạn, đạt mức hàng năm tốc độ tăng trưởng 11,3%. Trung Quốc, Mỹ và Tây Âu sẽ chiếm khoảng 3/4 tổng chi tiêu cho IoT. Mặc dù ban đầu ba khu vực sẽ có tổng chi tiêu tương tự nhau, nhưng chi tiêu của Trung Quốc sẽ tăng với tốc độ nhanh hơn hai khu vực còn lại - tốc độ tăng trưởng hàng năm là 13,4%, so với 9,0% và 11,4% - khiến nước này trở thành quốc gia dẫn đầu về đầu tư IoT. Tăng trưởng chi tiêu IoT hàng năm nhanh nhất sẽ là ở Trung Đông và Bắc Phi (19,0%), Trung và Đông Âu (17,6%) và Mỹ Latinh (15,8%).

Đông Nam Á là một trong những thị trường Internet phát triển nhanh nhất thế giới, do dân số trẻ, tốc độ sử dụng điện thoại thông minh và tốc độ đô thị hóa nhanh, cũng như tầng lớp trung lưu đang phát triển. Nền kinh tế Internet của Đông Nam Á được dự báo sẽ đạt 1 nghìn tỷ USD vào năm 2030, sau khi đã có thêm 60 triệu người dùng Internet mới kể từ khi bắt đầu xảy ra dịch bệnh Covid-19, nâng tổng số lên 440 triệu người đang sử dụng Internet, với hàng chục triệu người tham gia mua sắm trực tuyến và giao hàng thực phẩm…

Ngành công nghiệp trực tuyến ở Đông Nam Á dự kiến ​​tổng giá trị giao dịch - Gross Merchandise Value (GMV) sẽ tăng ước tính từ khoảng 174 tỷ USD vào cuối năm 2021 lên 360 tỷ USD vào năm 2025 và 1 nghìn tỷ USD vào năm 2030, chủ yếu được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng trong thương mại điện tử và giao hàng thực phẩm, khi người tiêu dùng ở nhà chuyển sang sử dụng Internet.

Thúc đẩy năng lực thể chế quốc gia và quốc tế phòng chống dịch bệnh

Trước ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, các chính phủ trên thế giới đã, đang và sẽ tiếp tục có nhiều cách tiếp cận và đối phó, khả năng thích ứng với đại dịch Covid-19; đồng thời, các lựa chọn chính sách đang ngày càng trở nên khó khăn hơn, với các thách thức đa chiều, như: việc làm thấp, lạm phát gia tăng, nợ công tăng mạnh, mất an ninh lương thực, sự thụt lùi trong tích lũy vốn lao động và biến đổi khí hậu. Đại dịch cho thấy, không có ngoại lệ đổ vỡ và khủng hoảng cho bất kỳ mô hình kinh doanh và nhà nước nào, kể cả các đại gia và cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới; nền kinh tế toàn cầu siêu kết nối ngày nay, được đặc trưng bởi các liên kết thương mại sâu rộng, đã khiến thế giới dễ bị tổn thương hơn trước các cú sốc và cuộc tấn công từ thiên nhiên. Thương mại có thể làm tăng mức độ dễ bị tổn thương của các quốc gia và khả năng tiếp xúc với các mối nguy, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền các mối nguy đó thông qua các liên kết kinh tế, tài chính, vận tải và kỹ thuật số. Đồng thời, thương mại, với tư cách là động lực chính của năng suất và tăng trưởng kinh tế, giúp các quốc gia tạo ra các nguồn lực cần thiết để ngăn ngừa rủi ro, chuẩn bị đối phó và phục hồi sau các cú sốc.

Đồng thời, thế giới ngày nay đang đặt ra yêu cầu phối hợp hài hòa, sử dụng đồng thời cả chức năng nhà nước và chức năng thị trường trong một mô hình Nhà nước kiểu mới, với sự coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính 2 mặt của các giải pháp chính sách, sự hợp tác toàn cầu nhiều hơn, nhằm đa dạng hóa và phối hợp hiệu quả các nguồn lực, tăng cường dự báo, thông tin, giữ vững lòng tin, hài hòa lợi ích, tránh cực đoan trong nhận thức và hành động vượt qua khủng hoảng...

Các biện pháp giảm thiểu rủi ro và chính sách ứng phó ở một quốc gia có thể có. Nhưng trong trường hợp không có sự phối hợp hợp lý toàn cầu, việc áp dụng các chính sách đó có thể sẽ kém tối ưu. Hợp tác cũng có thể giúp hạn chế việc sử dụng các chính sách có thể có tác động lan tỏa tiêu cực đối với các đối tác thương mại, chẳng hạn như hạn chế xuất khẩu hoặc trợ cấp.
Đại dịch cũng khiến thế giới trở lên chật hẹp hơn, gia tăng sự tùy thuộc, kết nối chặt chẽ và tác động lan tỏa hơn giữa các quốc gia có. Mỗi nước, cộng đồng và cá nhân đều có trải nghiệm sâu sắc và tăng cảm thông nhau hơn khi hiểu rằng, không một ai, không một quốc gia nào được an toàn, khi cộng đồng và các nước khác chưa an toàn. Dịch bệnh tạo áp lực và động lực thúc đẩy các nỗ lực xây dựng, củng cố vững chắc, phối hợp thường xuyên hơn các thể chế và các nguồn lực quốc gia và quốc tế, để tăng năng lực chống chịu, dự báo, phòng chống dịch bệnh trên phạm vi toàn cầu kịp thời và hiệu quả hơn trong thời gian tới.

ThS. Nguyễn Trần Minh Trí

Viện Kinh tế & Chính trị thế giới - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc