Tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Một mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng là tìm kiếm lợi ích cho cổ đông. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại (NHTM) cũng là một nhân tố hình thành các hoạt động xã hội với những cá nhân và tổ chức liên quan, tạo nên mối liên kết với các chủ thể trong nền kinh tế.
aa

Tóm tắt: Một mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng là tìm kiếm lợi ích cho cổ đông. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại (NHTM) cũng là một nhân tố hình thành các hoạt động xã hội với những cá nhân và tổ chức liên quan, tạo nên mối liên kết với các chủ thể trong nền kinh tế. Tại Việt Nam, Nhà nước đã có quy định và đề ra bộ tiêu chí để đăng kí trách nhiệm xã hội (CSR) đối với ngân hàng theo tiêu chuẩn ISO 26000:2010. Điều này thúc đẩy các ngân hàng thực hiện hoạt động CSR và có khung báo cáo nhất quán về kết quả hoạt động này. Nhờ vậy, hoạt động tìm hiểu về ý nghĩa của CSR nói chung và CSR đối với ngành Ngân hàng nói riêng sẽ có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc thực hiện CSR tại các NHTM còn tồn tại nhiều bất cập. Nghiên cứu tiến hành phân tích thực trạng và đề xuất các kiến nghị nhằm tăng cường thực hiện CSR tại các NHTM Việt Nam.

Từ khóa: Kiến nghị, CSR, NHTM Việt Nam.

ENHANCING THE IMPLEMENTATION OF CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY
AT VIETNAM COMMERCIAL BANKS


Abstract: The main goal for the economic activities of businesses in general and the banking industry in particular is to seek benefits for shareholders. In the process of business operations, commercial banks cannot be separated from social activities, but banks are a factor in forming social activities with related inpiduals and organizations, forming links with actors in the economy. In Vietnam, the State has regulations and proposed a set of criteria to register social responsibility for banks according to ISO 26000: 2010. This encourages banks to carry out corporate social responsibility (CSR) activities with the community and have a consistent reporting framework on these performance results. Thanks to that, learning about the meaning of CSR in general and CSR for the banking industry in particular will have many advantages. However, in recent times, the implementation of CSR at commercial banks still has many shortcomings. The study analyzes the current situation and proposes policy recommendations to enhance CSR implementation at Vietnamese commercial banks.

Keywords: Policy recommendations, CSR, Vietnam commercial banks.

1. Cơ sở lí thuyết về CSR trong lĩnh vực ngân hàng

Một trong những cách hiểu phổ biến nhất về CSR của doanh nghiệp là doanh nghiệp không chỉ theo đuổi mục tiêu chính là tối đa hóa lợi nhuận, mà còn phải đóng góp cho hạnh phúc của xã hội thông qua các hoạt động tự nguyện (Barauskaite và Streimikiene, 2021). Một trong những định nghĩa sớm nhất về CSR được công bố bởi Bowen (1953): “Nghĩa vụ của các doanh nghiệp là theo đuổi các chính sách hoặc quyết định tuân theo những cách thức hành động, mong muốn về các mục tiêu và giá trị của xã hội”. Tất cả các định nghĩa khác vào thập niên 50 đã thừa nhận sự cần thiết của việc doanh nghiệp chấp nhận CSR, bao gồm khả năng thúc đẩy lợi ích công cộng, tạo ra niềm tin cơ bản trong xã hội, góp phần vào sự ổn định, mạnh mẽ và hài hòa của xã hội. Davis (1973) đã đưa ra một định nghĩa khác liên quan tới CSR trong doanh nghiệp không chỉ giới hạn ở yêu cầu pháp lí, kinh tế, công nghệ và tạo ra việc làm mà là thiện chí của doanh nghiệp trong xã hội. Trong thời kì hiện nay, áp lực đối với các doanh nghiệp ngày càng gia tăng khi phải tuân theo các quy định về bảo vệ môi trường, tính minh bạch và sự cạnh tranh dữ dội trên thị trường.

Do đó, việc giới thiệu CSR như một chiến lược để tồn tại của doanh nghiệp đã trở thành điều cần thiết (Galan, 2006). Cụ thể, sự tập trung của các công ty được chuyển hướng vào các khía cạnh khác nhau trong bức tranh tổng thể của sự kì vọng từ công chúng đối với hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm: (i) Phát triển bền vững; (ii) Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình; (iii) Duy trì quản lí tốt mối quan hệ của các bên liên quan; (iv) Vận động chính sách về các khía cạnh khác nhau của nhân quyền, công lí và các nguyên tắc dân chủ; (v) Tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế đã được chấp nhận về CSR; (vi) Thực hành kinh doanh có đạo đức. Định nghĩa CSR đã được mở rộng khi Rahman (2011) đưa ra 10 điểm liên quan, bao gồm: Nghĩa vụ đối với xã hội; sự tham gia của các bên liên quan; nâng cao chất lượng cuộc sống; phát triển kinh tế; đạo đức hoạt động kinh doanh; tuân thủ pháp luật; tự nguyện; nhân quyền; bảo vệ môi trường; minh bạch và trách nhiệm giải trình. Như vậy, từ những điểm này có thể thấy rằng công ty được mong đợi sẽ góp phần vào sự phát triển xã hội và xây dựng uy tín cho công ty.

Do đó, CSR không chỉ giới hạn trong việc từ thiện mà còn kết hợp các sáng kiến kinh tế, pháp lí và tự nguyện để đáp ứng mong muốn từ các bên liên quan. Biến đổi khí hậu được thừa nhận như là một thách thức cấp bách trên toàn cầu trong thế kỉ 21, yêu cầu hành động của cả cộng đồng và con người nhằm bảo tồn môi trường và khắc phục tác động của nó. Các cụm từ "giảm lượng carbon", "không phát thải ròng" và "trung hòa carbon" đang ngày càng lôi kéo sự quan tâm của toàn xã hội. Trong khi đó, con đường hướng xanh hóa Việt Nam và tăng trưởng xanh yêu cầu sự tham gia của cả nền kinh tế, trước hết là sự đóng góp có ý thức của cả xã hội; nhằm khuyến khích sự cộng tác giữa doanh nghiệp và cộng đồng xã hội tốt hơn nữa, tăng cường năng lực tác động, lan truyền và tạo ra những giá trị bền vững (Boutin - Dufresne và cộng sự, 2004). Ở nhiều quốc gia khác, CSR đã trở thành xu thế mới, cho phép doanh nghiệp biến những vấn đề về xã hội và môi trường trở thành thời cơ như một bộ phận của kế hoạch phát triển dài hạn (Buallay, 2019).

Sự cộng tác giữa doanh nghiệp cùng các đối tác xã hội đóng góp đáng kể vào việc giảm phát thải và cải thiện môi trường bằng cách cung cấp động lực để thực hiện CSR, qua đó nâng cao hình ảnh, uy tín thương hiệu và góp phần hướng đến sự thịnh vượng về kinh tế, xã hội và môi trường (Brammer và cộng sự, 2007).

Ngân hàng cũng được xem là một doanh nghiệp đặc biệt, điểm khác biệt so với các doanh nghiệp khác là ngân hàng có các nghiệp vụ tài chính như huy động vốn, cho vay, phát hành các giấy tờ có giá… Về vấn đề môi trường, các ngân hàng xem mình là các doanh nghiệp thân thiện với môi trường hơn các ngành, nghề khác bởi vì ngân hàng không thải ra các hóa chất độc hại hoặc phát tán các vi khuẩn vào môi trường (Trần Thị Hoàng Yến, 2014). Tuy nhiên, bản thân ngân hàng phải chịu trách nhiệm đối với tác động của các quyết định cho vay, đầu tư của mình vào các doanh nghiệp thông qua nghiệp vụ cấp tín dụng. Do đó, trong khuôn khổ nghiên cứu này, dựa trên quan điểm lí thuyết các bên liên quan, kế thừa khái niệm của ISO (2010), CSR của ngân hàng được hiểu là trách nhiệm của NHTM đối với những hoạt động và tác động của các quyết định của NHTM đến môi trường, người lao động và xã hội thông qua sự minh bạch và hành vi đạo đức nhằm đóng góp cho sự phát triển bền vững, có tính đến những mong muốn của các bên liên quan, phù hợp với luật pháp, nhất quán với chuẩn mực ứng xử quốc tế và được tích hợp trong toàn bộ hoạt động cũng như thực thi trong các mối quan hệ của ngân hàng (Bowman và cộng sự, 1975).

2. CSR tại các NHTM Việt Nam

Thời gian vừa qua, nhiều chính sách của Chính phủ đã được triển khai thực hiện bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nhằm mục đích thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, đặc biệt là việc tập trung vào thúc đẩy nền kinh tế xanh như:

Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 06/8/2015 của Thống đốc NHNN ban hành kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020; Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 hướng dẫn quản lí rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Các chính sách tiền tệ của NHNN thời gian qua đã hướng đến khuyến khích sự tham gia đầu tư vào các lĩnh vực bền vững về môi trường từ các tổ chức tài chính, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, nhằm giảm thiểu lượng khí thải carbon và bảo vệ môi trường tự nhiên. Hoạt động của ngân hàng xanh và tín dụng xanh hiện rất quan trọng để thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.

Tại Hội nghị thượng định về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26) Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết Việt Nam đạt Net Zero - lượng khí thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Tại Hội thảo Net Zero đã được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 27/6/2023, với sự tham gia của hơn 137 quốc gia, bao gồm Hoa Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ... Những quốc gia này đã cam kết hoặc đang nỗ lực hướng tới mục tiêu "Net Zero" và chiếm 88% tổng lượng khí thải trên toàn cầu. Mỗi quốc gia đã xác định mốc thời gian riêng để đạt được mục tiêu này, với việc muộn nhất là vào năm 2035 và 2070 trong một số trường hợp ngoại lệ. Việt Nam đã cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Hình 1: Công bố CSR của các NHTM Việt Nam qua các năm

Đơn vị: Điểm

Nguồn: Phân tích của tác giả


Minh họa cho tình hình thực hiện CSR của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2022 được thể hiện qua Hình 1, trong đó cho thấy điểm trung bình CSR của ngành Ngân hàng đạt 74,64. Điểm này cao hơn so với điểm trung bình CSR của các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán là 56,40 (Hồ Thị Vân Anh, 2018). Từ đây có thể suy luận rằng, sự quan tâm của các nhà quản lí ngân hàng đối với việc thực hiện các hoạt động CSR và công bố/tiết lộ thông tin về CSR ra bên ngoài cao hơn so với các lĩnh vực khác. Đặc biệt, ở các ngân hàng có vốn Nhà nước như NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Công thương Việt Nam, NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam có điểm trung bình CSR trong giai đoạn 2010 - 2022 lần lượt là 92,00; 86,79; 84,54 và 80,39. Sự quan tâm của các NHTM Nhà nước đối với thực hiện CSR cao hơn so với các NHTM cổ phần, điều này phù hợp với mục tiêu của Nhà nước đối với hệ thống các NHTM có vốn Nhà nước nhằm thực thi các định hướng và chính sách của NHNN chứ không chỉ là mục tiêu thu lợi nhuận (Trần Thị Hoàng Yến, 2016).

Hình 2: Công bố CSR - Phân loại theo hình thức niêm yết

Đơn vị: Điểm

Nguồn: Phân tích của tác giả


Hình 2 giúp nhà đầu tư hiểu rõ, các NHTM đã niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch có mức CSR trung bình cao hơn so với các NHTM mới niêm yết và cao hơn mức CSR trung bình Ngành. Điều này cũng phù hợp với kì vọng của đa số nhà đầu tư rằng ngân hàng niêm yết trên sàn giao dịch sẽ công bố đầy đủ thông tin, minh bạch tình hình hoạt động và có trách nhiệm với cộng đồng, với các đối tác bao gồm nhà đầu tư, cổ đông và nhân viên.

Tuy nhiên, việc triển khai CSR ở các ngân hàng có hai trở ngại lớn. Một là, trở ngại về khía cạnh kinh tế. Nhiều ngân hàng nghĩ rằng, CSR là việc sử dụng tài nguyên của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng chưa có nhiều cố gắng trong việc xác định ngân sách nhằm tiến hành CSR. Bên cạnh đó, việc thiếu vắng các quy định ràng buộc pháp luật về CSR cũng là một trở ngại đối với các NHTM Việt Nam trong việc tăng cường thực hiện CSR.

3. Khuyến nghị chính sách về CSR tại các NHTM Việt Nam

- Đối với các NHTM

Các nhà quản trị ngân hàng cần quan tâm đến hoạt động triển khai CSR bởi vì nó đem lại tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động ngay tức thì. Ngân hàng càng đầu tư vào CSR thì càng làm tăng quy mô tài sản, tăng nguồn huy động và cho vay, từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động. Bên cạnh đó, các NHTM tại Việt Nam cần quan tâm hơn nữa về trách nhiệm nhân viên, có thể ban đầu là một khoản đầu tư và chưa mang lại hiệu quả ngay tức thì; tuy nhiên về lâu dài, nó sẽ góp phần mang lại hiệu quả bền vững trong tương lai. Cuối cùng, các nhà quản trị ngân hàng cần duy trì hoạt động này, đặc biệt là sáng kiến liên quan đến các sản phẩm, dịch vụ, công nghệ nhằm hạn chế gây ra chất thải và ô nhiễm cho môi trường như ngân hàng xanh, tín dụng xanh và phát triển sản phẩm, dịch vụ xanh để hướng đến mục tiêu phát triển bền vững; từ bỏ tư duy là đầu tư vào các hoạt động CSR chỉ tăng chi phí và giảm hiệu quả hoạt động.

Cần phải có sự thay đổi trong nhận thức về việc thực hành CSR không chỉ vì lợi ích của cộng đồng mà còn vì lợi ích của chính các tập đoàn và tổ chức kinh tế. Kết quả của các thí nghiệm đã chỉ ra rằng, việc thực hiện CSR một cách hiệu quả không chỉ giúp tạo điều kiện cho các tập đoàn và tổ chức kinh tế tiếp cận được nhiều hơn khách hàng, mà còn giúp tăng giá trị của thương hiệu, cuối cùng là gia tăng lợi nhuận kinh doanh. Việc tiếp cận theo hướng này sẽ tạo ra động lực cho việc trích lập nguồn kinh phí dành riêng cho hoạt động CSR, coi đó như là một khoản đầu tư vào thương hiệu. Cụ thể hơn, nhận thức chính xác về bản chất của việc thực hành CSR không chỉ là vấn đề đạo đức trong kinh doanh hay các hoạt động từ thiện theo nghĩa chuyển giao lợi ích một chiều. Đây không phải là việc yêu cầu công ty phải hoạt động mà không mang lại lợi ích kinh tế, ngược lại, thông qua đó còn giúp tập đoàn và tổ chức kinh tế gia tăng uy tín của thương hiệu, có được ưu điểm trong môi trường cạnh tranh và cuối cùng là ảnh hưởng trực tiếp vào lợi ích của họ. Các NHTM có vốn Nhà nước được cho là có ưu thế để thực hiện CSR nhằm gia tăng giá trị thương hiệu hơn so với các NHTM vốn tư nhân. Do đó, trong thời gian sắp tới, nhóm các NHTM có vốn Nhà nước cần phải tuân theo chiến lược nhất quán này, đồng thời đảm bảo việc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị - xã hội và hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, các NHTM cổ phần cũng có khả năng để thực hành CSR.

Quan điểm thực hành CSR cần phải được nâng cấp không chỉ dừng lại ở việc thực hiện các chương trình cứu trợ, giảm thiểu thiên tai và y tế, mà còn phải chú ý đến việc đóng góp vào bảo vệ môi trường sống, nhằm xây dựng tính bền vững lâu dài. Thực tế đã chứng minh rằng điểm số của chỉ tiêu "hoạt động cộng đồng” cao hơn so với "đóng góp bảo vệ môi trường" tại Việt Nam. Tuy nhiên, thông điệp bảo vệ môi trường sống cũng mang lại hiệu quả tích cực không kém so với hoạt động thiện nguyện. Do đó, tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường sẽ ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả tài chính thông qua việc gia tăng giá trị thương hiệu.

Việc bảo vệ và tôn trọng môi trường sống có thể được coi là một khoản đầu tư. Đây không chỉ là để tuân theo pháp luật về môi trường mà còn để xây dựng hình ảnh tích cực của NHTM với các bên liên quan. Để thực hiện điều này, bộ phận tiến hành CSR cần được đào tạo, huấn luyện một cách chuyên nghiệp.

Việc thực hiện CSR lâu dài cần phải có chiến lược, tính toán cẩn thận để thực hiện đều đặn và tập trung vào việc xây dựng vị thế cho NHTM. Thật vậy, thực hiện CSR theo ý nghĩa đầy đủ và thực tế không phải là một vấn đề mà phần lớn các NHTM có khả năng giải quyết ngay lập tức, bởi hạn chế về nguồn lực như tài chính, kĩ thuật và nhân lực. Thực tế cho thấy, dường như các NHTM thường chỉ thực hiện CSR khi có sự kiện bất ngờ xảy ra, ví dụ như thiên tai, sau đó quyên góp tiền và công việc tự nguyện vẫn do tổ chức công đoàn của NHTM tiến hành. Cùng với sự thay đổi trong tư duy về CSR, cần có sự điều chỉnh trong phương pháp thực hiện để nâng cao chiến lược CSR theo hướng chuyên nghiệp.

Hiện nay, các báo cáo của NHTM đã trình bày về các hành động phục vụ cộng đồng dân cư, tuy vậy, vẫn chưa được trình bày một cách đầy đủ và chi tiết. Nguyên nhân chủ yếu là vì ngân hàng chưa chú trọng nhiều đến thông tin xã hội, chưa đề cập đến thông tin xã hội trong báo cáo tài chính do chưa có quy định bắt buộc. Do đó, các NHTM trong báo cáo cuối năm không chỉ chú ý tới từng chỉ tiêu tài chính mà còn cần chú trọng việc minh bạch thông tin liên quan đến thực hành CSR.

- Các cơ quan quản lí

Tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lí với khung pháp luật hiện nay tại Việt Nam làm căn cứ thúc đẩy việc thực hiện CSR. Việc bổ sung này cần nhìn nhận từ hai khía cạnh khác nhau là sử dụng thuế suất và cơ chế báo cáo. Với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đang thực hiện, cần bổ sung và khẳng định hoạt động CSR hướng tới được khấu trừ chi phí tính thuế thu nhập; cụ thể là các khoản chi hỗ trợ hoạt động môi trường vì cộng đồng. Chính các hoạt động môi trường thường xuyên, định kì là chất xúc tác giúp nâng cao ý thức của xã hội đối với tính bền vững. Mặc dù vậy, chính sách khuyến khích trên của Nhà nước cũng định hướng cho các NHTM tập trung thực hiện các hoạt động giúp ích cho cộng đồng trên cơ sở môi trường.

Việc xây dựng bộ chỉ số CSR nhằm mục tiêu cải thiện năng lực đánh giá thực hiện CSR tại hệ thống NHTM nói riêng và doanh nghiệp nói chung được tiến hành bởi cơ quan quản lí. Từ đó, chính NHTM có thể biết được điểm số xếp hạng của mình và có các ứng xử phù hợp với hoạt động CSR. Việc thiếu vắng các thông tin báo cáo về CSR cũng làm giảm tính khả thi của đánh giá tính quy chuẩn thực hiện CSR tại các NHTM bởi cơ quan quản lí và nhà nghiên cứu. Hiện tại, đã có các đơn vị nỗ lực xây dựng các báo cáo đánh giá về môi trường như Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với bộ chỉ số "Doanh nghiệp bền vững", hoặc bộ tiêu chuẩn quản lí môi trường theo chuẩn ISO 14000. Đây là những bộ chỉ tiêu nền tảng cho việc xây dựng bộ chỉ số CSR tại các doanh nghiệp Việt Nam. Trong tương lai gần, việc hoàn thiện bộ chỉ số CSR sẽ tạo ra động lực cạnh tranh lành mạnh trong nội bộ các NHTM khi nâng cao tính giải trình xã hội trong hoạt động ngân hàng.

Để nâng cao nhận thức về CSR, cần khuyến khích tuyên truyền đối với hệ thống NHTM và doanh nghiệp. Cơ chế tài chính và chế tài có thể làm cho CSR tiếp cận bị động bởi NHTM, trong khi nhận thức từ phía chủ thể sẽ giúp thực hiện CSR một cách tích cực. Cơ quan quản lí có thể tổ chức các cuộc hội thảo hoặc đối thoại trực tiếp để tuyên truyền kiến thức về CSR cho các tổ chức. Trong thực tế, các NHTM lớn đã thường xuyên thực hiện CSR và họ có kinh nghiệm để chia sẻ bài học về việc áp dụng CSR. Từ đó, cơ quan quản lí và các NHTM lớn có thể đánh giá được tình hình tổng quan về việc áp dụng CSR trong hệ thống NHTM và đưa ra kế hoạch phù hợp để ủng hộ các NHTM nhỏ trong việc triển khai CSR. Việc áp dụng CSR không chỉ mang lại lợi ích cho NHTM mà còn góp phần vào an sinh xã hội và nâng cao điều kiện môi trường sống; đồng thời, việc kết hợp hoạt động kinh doanh với hoạt động mang tính bền vững sẽ giúp tạo ra một môi trường kinh doanh tích cực từ góc nhìn của quản lí nhà nước.

Tài liệu tham khảo:

1. Barauskaite, G., & Streimikiene, D. (2021). Corporate social responsibility and financial performance of companies: The puzzle of concepts, definitions and assessment methods. Corporate Social Responsibility and Environmental Management, 28(1), pages 278-287.

2. Bowen, H. R. (1953). Social Responsibility of the Businessman. New York: Harper and Row.

3. Boutin-Dufresne, F. and Savaria, P.J.T. (2004), “Corporate social responsibility and financial risk”, Journal of Investing, Vol. 13 No. 1, pages 57-66. DOI: https://doi.org/10.3905/joi.2004.391042

4. Bowman, E. H., & Haire, M. (1975). A strategic posture toward corporate social responsibility. California management review, 18(2), pages 49-58.

5. Brammer, S., Millington, A., & Rayton, B. (2007). The contribution of corporate social responsibility to organizational commitment. The International Journal of Human Resource Management, 18(10), pages 1701-1719.

6. Buallay, A. (2019). Is sustainability reporting (ESG) associated with performance? Evidence from the European banking sector, Management of Environmental Quality: An International Journal, vol. 30, no. 1, pages 98-115. https://doi.org/10.1108/MEQ-12-2017-0149

7. Byus, K., Deis, D., & Ouyang, B. (2010). Doing well by doing good: Corporate social responsibility and profitability. SAM Advanced Management Journal, 75(1), 44.

8. Davis, K. (1973). The case for and against business assumption of social responsibilities. Academy of Management journal, 16(2), pages 312-322.

9. Galan, J. I. (2006). Corporate social responsibility and strategic management. Journal of Management Studies, 43(7), pages 1629-1641.

10. Rahman, S. (2011). Evaluation of definitions: ten dimensions of corporate social responsibility. World Review of Business Research, 1(1), pages 166-176.

11. Trần Thị Hoàng Yến (2016). Nghiên cứu tác động CSR của doanh nghiệp đến kết quả hoạt động tài chính tại các NHTM Việt Nam (Doctoral dissertation). http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17183

12. Trần Thị Hoàng Yến. (2014), CSR in the Banking Sector, International Journal of Economics, Commerce and Management, vol. 2, no. 11, pages 1-22.


TS. Đào Lê Kiều Oanh

Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng