Sự phát triển của Fintech và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) trên thị trường đã làm thay đổi toàn bộ ngành dịch vụ tài chính, thúc đẩy phát triển các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống...
aa

Tóm tắt: Sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) trên thị trường đã làm thay đổi toàn bộ ngành dịch vụ tài chính, thúc đẩy phát triển các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống, mở rộng giao dịch trực tuyến thông qua Internet Banking, Mobile Banking, mạng xã hội, ngân hàng không giấy, điều này đặt ra câu hỏi, Fintech có phải là đối tác hay đối thủ của các ngân hàng thương mại (NHTM)? Nghiên cứu này phân tích sự phát triển Fintech trong thời gian gần đây dựa trên số lượng công ty Fintech, tổng nguồn tài trợ cho lĩnh vực Fintech, tổng giá trị giao dịch và môi trường pháp lí cùng với thực trạng hoạt động Fintech trong ngân hàng. Từ đó, nghiên cứu cho thấy những thách thức trong hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay khi phải đối mặt với sự phát triển mạnh mẽ của Fintech.

Từ khóa: Fintech, thách thức, ngân hàng.

THE DEVELOPMENT OF FINTECH AND CHALLENGES FOR VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS

Abstract: The emergence of Fintech companies in the financial market has completely changed the financial services industry, driving the development of traditional banking distribution channels, expanding online transactions through Internet Banking, Mobile Banking, social networks, paperless banking, raising the question of whether Fintech is a partner or competitor of commercial banks. This research analyzes the development of Fintech based on the number of Fintech companies, total funding for the Fintech sector, total transaction value and legal environment along with the current situation of Fintech activities at banks. Thereby, the research reveals the challenges for the banking system as Fintech develops rapidly in the financial market.


Keywords: Fintech, challenges, banking.

1. Giới thiệu

Việt Nam là một trong những thị trường hấp dẫn nhất trong khu vực đối với các nhà đầu tư quan tâm đến lĩnh vực Fintech và tiềm năng Fintech tạo ra là rất lớn. Sự tăng trưởng của tầng lớp trung lưu, dân số am hiểu công nghệ và hệ sinh thái thương mại điện tử năng động đã thúc đẩy lĩnh vực Fintech phát triển tại Việt Nam. Cùng các nước phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APAC) như Trung Quốc, Úc và Singapore, thị trường Fintech Việt Nam phát triển nhanh chóng, với nhiều mô hình sáng tạo như thanh toán di động, cho vay ngang hàng (P2P), quản lí tài chính cá nhân, công nghệ bảo hiểm... Theo Robocash Group, Fintech tại Việt Nam đang chứng kiến tốc độ tăng trưởng cao nhất ASEAN sau Singapore và được dự đoán sẽ đạt mức đáng kinh ngạc là 18 tỉ USD vào năm 2024. Sự đổi mới liên tục của Fintech đã có tác động đáng kể nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho ngành Ngân hàng. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng phát triển Fintech và thách thức của nó đối với các NHTM tại Việt Nam hiện nay.

2. Thực trạng phát triển Fintech tại thị trường Việt Nam

2.1. Sự phát triển của các công ty Fintech


Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), số lượng công ty Fintech trong nước đã tăng đáng kể trong giai đoạn 2010 - 2023, từ 10 công ty vào cuối năm 2010 lên hơn 187 công ty vào năm 2023 và vẫn còn nhiều dư địa để tăng trưởng trong vài năm tới, thậm chí là thập kỉ tới. (Hình 1)

Hình 1: Số lượng công ty Fintech trên thị trường Việt Nam

giai đoạn 2010 - 2023

Nguồn: Statistia


Trong thị trường Fintech, thanh toán số vẫn là mảng hoạt động chiếm tỉ trọng cao nhất không chỉ về số lượng công ty mà còn dựa trên tỉ lệ sử dụng điện thoại thông minh của người dùng. Việt Nam đang có sự tăng trưởng đáng kể về thanh toán kĩ thuật số khi người tiêu dùng nhanh chóng áp dụng nhiều phương thức, bao gồm thanh toán thẻ trực tuyến và thanh toán không tiếp xúc trên thiết bị di động khi mua sắm trực tuyến, thanh toán hóa đơn và mua hàng tại siêu thị. Trước đại dịch Covid-19, Việt Nam được coi là một trong những quốc gia phụ thuộc vào tiền mặt nhất châu Á. Tuy nhiên, trong thời kì đại dịch, tỉ lệ áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt đã tăng 95%, trở thành một trong những quốc gia có tỉ lệ này cao nhất ở Đông Nam Á. Hầu hết các công ty khởi nghiệp Fintech hiện có ở Việt Nam đều tập trung vào ví điện tử và hỗ trợ thanh toán, dựa trên sự tăng trưởng nhanh chóng của thương mại điện tử và thanh toán kĩ thuật số. Thanh toán qua nền tảng thương mại điện tử cũng tăng trưởng nhanh chóng do sự gia tăng mua sắm trực tuyến kể từ sau đại dịch, theo đó, giá trị giao dịch của thanh toán kĩ thuật số tại Việt Nam đã tăng từ 5,5 tỉ USD năm 2017 lên hơn 24 tỉ USD vào năm 2023.

Không chỉ tăng trưởng mạnh mẽ trong mảng thanh toán số, Fintech cũng ghi nhận sự phát triển tích cực trong các lĩnh vực tài chính thay thế.

(i) Trong lĩnh vực cho vay P2P

Từ năm 2015, những nền tảng đầu tiên cung cấp dịch vụ cho vay P2P đã xuất hiện tại Việt Nam. Tính đến nay, hoạt động cho vay P2P đã phát triển trong 9 năm, nhưng còn non trẻ so với hoạt động ngân hàng truyền thống tại Việt Nam cũng như lĩnh vực cho vay P2P trên thế giới. Theo NHNN, năm 2023, Việt Nam có trên 100 công ty cho vay P2P (bao gồm cả những công ty đã chính thức ra mắt và đang trong giai đoạn thử nghiệm) như Công ty cổ phần (CTCP) Tập đoàn Tima, Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Trust Circle, Công ty TNHH công nghệ Wecash Việt Nam, CTCP InterLoan... Các công ty này đều tập trung vào phân khúc cho vay tiêu dùng, ngoài ra, các hộ kinh doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng được nhắm đến là phân khúc khách hàng tiềm năng. Vốn điều lệ các công ty cho vay P2P thường nhỏ, dưới 1 tỉ đồng hoặc từ 1 - 10 tỉ đồng, rất ít công ty có vốn điều lệ trên 10 tỉ đồng. Các nền tảng cho vay P2P tại Việt Nam cũng có các tính năng, quy trình cung cấp hoặc cho vay theo mô hình cho vay P2P phổ biến trên thế giới. Lãi suất cho vay của các công ty cho vay P2P thường không quá 20%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự, nhưng đi kèm với nhiều loại phí, như phí tư vấn, phí trả nợ trước hạn, tổng các khoản phí và lãi khách hàng phải trả có thể lên đến 30 - 50%/tháng.

(ii) Trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME)

Với nền kinh tế mở rộng, tốc độ tăng trưởng tương đối cao và thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng tích cực, Việt Nam có tiềm năng đáng kể để phát triển cho vay tiêu dùng. Những doanh nghiệp lớn trong phân khúc Fintech này có thể kể đến như Công ty Tài chính tiêu dùng Home Credit và Công ty Tài chính TNHH một thành viên NHTM cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) - FE Credit. Những doanh nghiệp này có thể tận dụng định vị thương hiệu và kinh nghiệm thị trường của họ để phát triển hơn nữa các sản phẩm cung cấp và củng cố thị phần. Các sản phẩm tài chính tiêu dùng tại Việt Nam hiện bao gồm nhiều phân khúc như cho vay thẻ tín dụng, cho vay mua ngay trả sau và kinh doanh hiệu cầm đồ... Với sự tăng trưởng nhanh chóng của thương mại điện tử hiện nay, tổng giá trị giao dịch của phân khúc này dự kiến sẽ tăng mạnh trong thời gian tới.

Về cho vay SME, sự phát triển của Fintech trong những năm gần đây đã thay đổi tích cực trong việc tiếp cận vay vốn của SME. Tiêu biểu như Tập đoàn Sumitomo Mitsui Nhật Bản đã đầu tư 1,3 tỉ yên (khoảng 10 triệu USD) vào CTCP SmartNet Việt Nam để phát triển ứng dụng SmartPay, cung cấp các giải pháp mua ngay và trả sau cho các SME và doanh nghiệp siêu nhỏ tới khoảng 667.000 nhà bán lẻ trên 63 tỉnh, thành phố. Ngoài ra, Hiệp hội Fintech Singapore cũng thiết lập một mạng lưới rộng khắp với 150.000 đại lí và cửa hàng bán lẻ để cung cấp khoản vay tín chấp trị giá 2 tỉ USD cho SME tiềm năng tại Việt Nam.

(iii) Trong lĩnh vực mua ngay trả sau

Các công ty Fintech cũng đang phát triển nhanh chóng ở mảng mua ngay trả sau. Với sự xuất hiện của ví điện tử và nền tảng mua ngay trả sau như CTCP Krepo, tỉ lệ sử dụng các khoản vay ngắn hạn mua ngay trả sau tại Việt Nam ngày càng cao, hiện nay thuộc hàng cao nhất trong khu vực APAC, chỉ sau Trung Quốc và Indonesia. Đây là một trong nhiều ví dụ cho thấy các sản phẩm Fintech như mua ngay trả sau giành được thị phần từ hệ sinh thái tài chính truyền thống bằng cách tận dụng những lợi ích cho người dùng. Các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ thanh toán mua ngay trả sau thuộc hai loại: Doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ mua ngay trả sau được sản xuất dưới dạng tùy chọn thanh toán và doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ mua ngay trả sau là sản phẩm, dịch vụ chính. Phần lớn các mô hình kinh doanh mua ngay trả sau thường được thành lập dưới dạng các thực thể riêng biệt trong mạng lưới kinh doanh rộng hơn của các ngân hàng lâu đời hoặc các tổ chức tài chính thay thế lớn. Những công ty Fintech cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mua ngay trả sau tại Việt Nam có thể kể đến như Công ty Tài chính tiêu dùng Home Credit, Công ty GRAB Finance Vietnam (GFG) và Công ty Tài chính TNHH một thành viên Lotte Việt Nam đã lần lượt ra mắt các dịch vụ thanh toán Home Pay Later, Grab Pay Later và Way4. Ree-Pay, Fundiin, LitNow, Movi...

Không chỉ phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính thay thế, hiện nay, có rất nhiều công ty đầu tư mạnh vào lĩnh vực quản lí tài sản. Hoạt động của các công ty Fintech trong lĩnh vực quản lí tài sản trong năm 2022 và 2023 diễn ra sôi động với nhiều nhà đầu tư hơn như CTCP Finhay, CTCP Anfin, CTCP Real Stake Việt Nam và CTCP Real Stake Fintech với ứng dụng đầu tư và tích lũy Infina... Tổng số vốn huy động được từ các công ty này lên tới 36,5 triệu USD. Đặc biệt, giữa năm 2022, CTCP Finhay mua lại CTCP Chứng khoán Vinasecurities, với mục tiêu hoàn thiện hệ sinh thái của công ty và bước vào hoạt động huy động vốn. Các công ty này đã và đang phục vụ nhóm các nhà đầu tư trẻ, có nhu cầu đầu tư và tích lũy tài sản. Ngoài ra, với tầng lớp trung lưu đang phát triển, có xu hướng nhìn xa hơn để lên kế hoạch tài chính cho tương lai và việc thế hệ trẻ được giáo dục tốt hơn về quản lí tài sản kĩ thuật số, những công ty khởi nghiệp Fintech ở mảng quản lí tài sản có thể thu hút được lượng khách hàng lớn này tại Việt Nam trong tương lai.

Lĩnh vực công nghệ bảo hiểm (Insurtech) cũng đang là lĩnh vực Fintech phát triển mạnh mẽ. Insurtech được cấu thành từ hai thành phần là thị trường bảo hiểm và mức độ ứng dụng công nghệ trong toàn ngành. Cả hai yếu tố này ở Việt Nam hiện nay đều nhỏ hơn nhiều so với các thị trường mới nổi khác trong khu vực, với doanh thu từ các sản phẩm công nghệ bảo hiểm chỉ chiếm 3% tổng doanh thu thị trường bảo hiểm vào năm 2023. Tỉ lệ khiêm tốn này chủ yếu được đóng góp bởi ba công ty: Công ty TNHH Xoài Việt Nam - Papaya, CTCP Công nghệ và Truyền thông SAMO với thương hiệu TheBank Assurance (TBA), CTCP Công nghệ dịch vụ y tế Medici. Hầu như tất cả các công ty khởi nghiệp Insurtech ở Việt Nam đang nỗ lực số hóa cả về bảo lãnh phát hành và bán sản phẩm bảo hiểm. Tuy nhiên, các công ty khởi nghiệp Insurtech vẫn gặp khó khăn trong việc tự bảo lãnh do quá trình này đòi hỏi nhiều yếu tố phức tạp. Vì vậy, họ phải hợp tác với các nền tảng của bên thứ ba để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, khách hàng vẫn có thói quen mua sản phẩm bảo hiểm truyền thống, khiến các công ty khởi nghiệp Insurtech của Việt Nam gặp khó khăn khi phải cạnh tranh với các đối thủ chủ chốt khác. Mặt khác, đây cũng là tín hiệu tích cực khi bản thân ngành bảo hiểm Việt Nam còn rất non trẻ, chưa được khai thác triệt để và còn nhiều tiềm năng phát triển. Thị trường bảo hiểm tại Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ hai con số mỗi năm, dự kiến sẽ sớm đạt 10 tỉ USD khi dân số bắt đầu già đi và lượng khách hàng trung lưu ngày càng tăng.

Ngoài ra, sự phát triển của các công ty ứng dụng ngân hàng số (Neobank) đang diễn ra mạnh mẽ khi quá trình số hóa của các NHTM truyền thống hiện tại diễn ra chậm hơn và mức độ bao phủ kĩ thuật số thấp ở một số NHTM, mang lại dư địa lớn cho tăng trưởng của các công ty Fintech. Một trong những đơn vị đáng chú ý trong lĩnh vực này là CTCP FinFan đang cung cấp nền tảng Neobank với các giải pháp tối ưu từ chuyển tiền xuyên biên giới đến các dịch vụ thanh toán hóa đơn, đầu tư và cho vay.

2.2. Tổng nguồn tài trợ cho lĩnh vực Fintech

Ngành công nghiệp Fintech ở khu vực Đông Nam Á tiếp tục có tốc độ phát triển vượt bậc so với các khu vực khác trên thế giới. Tại Việt Nam, thị trường Fintech cũng đã nhanh chóng phát triển và là mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư cả trong nước và

nước ngoài.

Năm 2022 tổng giá trị dòng vốn đầu tư vào Fintech Việt Nam là 137,9 triệu USD, chiếm 2,3% giá trị thương vụ trong khu vực. Năm 2023 giá trị tài trợ Fintech giảm xuống còn 37,5 triệu USD qua 8 vòng gọi vốn, giảm mạnh 90% so với năm 2022. Sự chậm lại trong nguồn tài trợ cho thấy vấn đề tài chính mà các công ty khởi nghiệp Fintech phải đối phó trong thời kì suy thoái kinh tế và sự thận trọng của các nhà đầu tư. Khi thích nghi với bối cảnh thay đổi, các nhà đầu tư sáng suốt hơn trong việc ra quyết định và tập trung chặt chẽ vào lợi nhuận. Mặt khác, việc giảm giá trị thương vụ không hoàn toàn tiêu cực, vì các nhà đầu tư cần xem xét lại các dự báo đầu tư và chú trọng hơn nữa vào lợi nhuận nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững.

2.3. Tổng giá trị giao dịch của Fintech

Tổng giá trị giao dịch Fintech tại Việt Nam tăng trưởng đều qua các năm nhờ việc đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng và giao dịch. Trong giai đoạn 2017 - 2023, thanh toán số tại Việt Nam chứng kiến giá trị giao dịch tăng nhanh và ổn định, riêng thanh toán thương mại điện tử đạt 17,894 triệu USD vào năm 2023 và dự báo giá trị đạt 22,056 triệu USD vào năm 2025, thanh toán POS di động cũng tăng trưởng mạnh, đạt 3,216 triệu USD và dự báo tăng lên 4,323 triệu USD vào năm 2025. Đến nay, toàn thị trường có 120 triệu ví điện tử và có hơn 3.300 tỉ đồng được người dân duy trì trong ví điện tử để thực hiện các giao dịch thanh toán. Đồng thời, khoảng 18,8 triệu tài khoản và thẻ được mở bằng eKYC, cùng với hơn 13,2 triệu thẻ ngân hàng đã được kích hoạt bằng phương thức điện tử theo quy định tại Thông tư số 17/2021/TT-NHNN ngày 16/11/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng. (Hình 2)

Hình 2: Giá trị giao dịch thanh toán kĩ thuật số tại Việt Nam

giai đoạn 2017 - 2023 và dự kiến đến năm 2025

Nguồn: Statista


Số lượng người dùng thanh toán số cũng liên tục tăng trưởng trong giai đoạn 2017 - 2023 và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong năm 2024, 2025. Năm 2023, Việt Nam có 63 triệu người dùng thanh toán thương mại điện tử; con số này ở mảng thanh toán POS di động là 32,5 triệu người. Số người dùng thanh toán thương mại kĩ thuật số dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên với 70,9 triệu người dùng thương mại điện tử và 34,9 triệu người dùng thanh toán POS di động vào năm 2025. (Hình 3)

Hình 3: Số lượng người dùng thanh toán kĩ thuật số tại Việt Nam
giai đoạn 2017 - 2023 và dự kiến đến năm 2025


Nguồn: Statista

Giao dịch cho vay thay thế ghi nhận sự ổn định ở cả hai phân khúc là cho vay cộng đồng và cho vay thị trường. Trong khi giá trị giao dịch ở phân khúc cho vay cộng đồng ghi nhận sự tăng trưởng liên tục, tăng lên 2 lần trong giai đoạn 2017 - 2023, từ 0,6 triệu USD lên 1,2 triệu USD, thì khoản cho vay thị trường vẫn giữ ổn định ở mức 0,1 triệu USD. (Hình 4)

Hình 4: Giá trị giao dịch phương pháp cho vay thay thế tại Việt Nam
giai đoạn 2017 - 2023 và dự kiến đến năm 2025

Nguồn: Statista


Về giá trị giao dịch gọi vốn cộng đồng tại Việt Nam, năm 2017 đạt khoảng 1,6 triệu USD, đến năm 2023, giá trị giao dịch của phương thức này đã tăng trưởng đáng kể, đạt 2,4 triệu USD và được dự đoán sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, đạt 2,6 triệu USD vào năm 2025. (Hình 5)

Hình 5: Giá trị giao dịch gọi vốn cộng đồng tại Việt Nam

giai đoạn 2017 - 2023 và dự kiến đến năm 2025

Nguồn: Statista


Về giá trị giao dịch đầu tư cộng đồng tại Việt Nam cũng tăng trưởng mạnh giai đoạn 2017 - 2023, từ 0,1 triệu USD vào năm 2017 đã tăng lên 0,6 triệu USD vào năm 2023. Dự đoán trong 2 năm tới, giá trị giao dịch đầu tư cộng đồng tại Việt Nam sẽ duy trì mức độ ổn định ở ngưỡng 0,6 triệu USD. (Hình 6)

Hình 6: Giá trị giao dịch đầu tư cộng đồng tại Việt Nam

giai đoạn 2017 - 2023 và dự kiến đến năm 2025

Nguồn: Statista


Trong các lĩnh vực phát triển Fintech, tiền ảo, Blockchain là nhóm được yêu thích nhất, dẫn đầu độ thảo luận trên mạng xã hội năm 2023 với hơn 290.000 thảo luận, gấp hơn 12 lần lượng thảo luận về thanh toán điện tử. Diễn biến thảo luận về ngành Fintech trên mạng xã hội năm 2023 có sự biến động liên tục qua từng tháng. Lượng thảo luận đạt đỉnh vào tháng 8 và tháng 10/2023 với hơn 68.000 thảo luận (Hình 7). Theo báo cáo của Crypto Crunch App cuối năm 2023, Việt Nam gây ấn tượng với gần 26 triệu người sở hữu tiền ảo, xếp thứ 3 trong bảng xếp hạng về lượng người nắm tiền ảo trên thế giới.

Hình 7: Diễn biến thảo luận ngành Fintech trên mạng xã hội năm 2023


Nguồn: Statista


3. Thực trạng Fintech và ngân hàng tại Việt Nam

Fintech đang nhanh chóng thay đổi bối cảnh ngành tài chính, ngân hàng và xóa mờ ranh giới giữa các công ty tài chính và ngân hàng truyền thống. Tại Việt Nam, các công ty Fintech hoạt động trong nhiều ngành, nghề khác nhau, bao gồm thanh toán, chuyển tiền, cho vay và tài chính cá nhân. Phần lớn các công ty Fintech đã hợp tác với ngân hàng để phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới, đáp ứng đa dạng các nhu cầu của khách hàng.

Về các sản phẩm, dịch vụ thanh toán điện tử


Theo Vụ Thanh toán, NHNN năm 2023, hầu hết các nghiệp vụ cơ bản đã được số hóa hoàn toàn tại các NHTM với tỉ lệ chi phí trên thu nhập khá thuận lợi, là 30 - 40%. Một số ngân hàng tiên phong đầu tư công nghệ mới nhằm nâng cao trải nghiệm khách hàng như NHTM cổ phần Tiên Phong (TPBank), NHTM cổ phần Quốc tế (VIB), NHTM cổ phần Quân đội (MB), VPBank... đã ghi nhận tỉ lệ giao dịch trên kênh kĩ thuật số trên 90%.

Một số ngân hàng lớn đã hình thành quan hệ hợp tác với các công ty Fintech. Cụ thể, NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank) đang hợp tác với 07 công ty khởi nghiệp Fintech thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như hợp tác với Tập đoàn Opportunity Network (ON) cung cấp nền tảng kết nối doanh nghiệp với trên 15.000 doanh nghiệp ở 113 quốc gia, tạo ra cơ hội mở rộng thị trường hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài. NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã hợp tác với CTCP Di động Trực tuyến (M_Service) để cung cấp dịch vụ chuyển tiền giá trị nhỏ ở khu vực nông thôn. Hầu hết các NHTM Việt Nam cũng đã hợp tác với ví MoMo để tạo ví điện tử. Ngân hàng TNHH HSBC Việt Nam đã hợp tác với 24 công ty Fintech và 756 nhà cung cấp dịch vụ để mang đến trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng.

Việc sử dụng ngân hàng số tăng liên tục mỗi năm trong giai đoạn 2019 - 2023. VIB và CTCP Quảng cáo Truyền thông Weezi Media cho ra mắt sản phẩm MyVIB Keyboard, một ứng dụng chuyển tiền qua mạng xã hội. NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đã kết hợp với Công ty TNHH Fintech Fastacash giới thiệu tính năng F@st Mobile - phương thức chuyển tiền nhanh chóng qua Facebook và Google+. Hơn nữa, nhờ sự hợp tác giữa MB và Công ty TNHH Boomerang Technology, người dùng có thể kiểm tra số dư ngân hàng, gửi tiền, mua bảo hiểm và đăng kí khoản vay trên Facebook, Messenger. Ngân hàng số Cake by VPBank - sản phẩm của sự kết hợp giữa Tập đoàn Be Group và VPBank, chỉ mất khoảng 20 tháng để có được hơn 2,3 triệu khách hàng nhờ vào ứng dụng công nghệ eKYC, điện toán đám mây. Hòa cùng xu thế chung, Ngân hàng TNHH một thành viên CIMB Việt Nam và CTCP Finhay cùng phát hành thẻ đồng thương hiệu CIMB - Finhay trên ứng dụng Finhay nhằm cung cấp đa tiện ích cho khách hàng.

Về các sản phẩm, dịch vụ huy động vốn và cho vay

Hiện nay, nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng trong nước đang đẩy mạnh hợp tác với các công ty Fintech để cung cấp giải pháp tài chính ở mảng huy động vốn và cho vay khách hàng. Điển hình là gói sản phẩm cho vay tiêu dùng dành cho khách hàng đại chúng ComB, đây là kết quả của sự hợp tác giữa Công ty TNHH Credify và NHTM cổ phần Phương Đông (OCB) hoặc gói sản phẩn FE Credit là sự hợp tác lâu dài giữa VPBank và FE Credit. Tuy nhiên, nhiều công ty Fintech đã xây dựng nền tảng huy động vốn cộng đồng độc lập, nổi bật là FirstStep, Comicola, Fundstart, Charity Map, FundingVN... Trong đó, FirstStep là website cho nhiều lĩnh vực về khởi nghiệp như nông nghiệp, phần mềm, giải trí, trò chơi điện tử, từ thiện... FundingVN được thành lập dưới sự bảo trợ của Trung tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp thuộc Hội Liên hiệp Thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh... Các công ty Fintech cũng phát triển các sản phẩm, dịch vụ cho vay độc lập như Lendbiz, Tima, Trust Circle, Vay mượn, Lendmo, Wecash, InterLoan... Như vậy, có thể thấy xu hướng hợp tác cũng như cạnh tranh giữa các NHTM và công ty Fintech đang ngày một rõ rệt trên thị trường.

Về các sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm

Tại Việt Nam, tỉ lệ công ty Fintech thâm nhập vào lĩnh vực bảo hiểm vẫn còn khá thấp so với các thị trường khu vực trong khi tỉ lệ người dùng điện thoại thông minh và Internet ở chiếm số lượng lớn. Vì vậy, giải pháp bảo hiểm có ứng dụng Fintech được kì vọng sẽ phát triển tại thị trường Việt Nam trong những năm tới. Theo đó, việc phân phối sản phẩm bảo hiểm số đã được nhiều ngân hàng tích cực triển khai và ngày càng phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy doanh thu và lợi nhuận của nhiều ngân hàng. Các ngân hàng lớn như Vietcombank liên doanh với Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ FWD, MB liên doanh với Tập đoàn Ageas Group và Muang Thai Life... nhằm khai thác lợi thế của cả hai bên trong lĩnh vực bảo hiểm.

Về các sản phẩm, dịch vụ quản lí tài sản


Mặc dù vẫn còn ở giai đoạn sơ khai nhưng lĩnh vực quản lí tài sản ở Việt Nam đã phát triển qua từng năm. Sự thay đổi trong cách người dân (đặc biệt là những người trẻ tuổi) quản lí tiền bạc và đầu tư khiến lĩnh vực này phát triển mạnh. Việt Nam có gần 50 ngân hàng và vô số công ty dịch vụ tài chính với quy mô khác nhau, hầu hết đều có ứng dụng tài chính riêng với những thế mạnh riêng. Điều này dẫn đến tình trạng khách hàng sở hữu nhiều ứng dụng, nhiều tài khoản cùng lúc và không thể quản lí toàn bộ danh mục tài chính của mình, đặc biệt là dòng tiền đầu tư, do vậy nhiều ngân hàng đã sử dụng Fintech như một giải pháp hữu hiệu trong quản lí tài sản. Tiêu biểu là MB với ứng dụng MBBank đã tích hợp nền tảng Digi Trading tạo nên siêu ứng dụng với hệ sinh thái "thanh toán - tiết kiệm - đầu tư" đa dạng. Tiện ích này cho phép người dùng dễ dàng tìm kiếm và lựa chọn sản phẩm phù hợp với mục đích, nhu cầu, vốn đầu tư và thuận tiện trong việc quản lí tài sản với nhiều danh mục đầu tư chỉ trên một ứng dụng. Sau hơn 6 tháng triển khai, Digi Trading đã thu hút được một lượng lớn nhà đầu tư, đặc biệt là giới trẻ nhờ tính chất yêu cầu vốn nhỏ, chỉ từ 50.000 đồng. Tương tự ngân hàng số Cake của VPBank kết hợp với CTCP Quản lý Quỹ Dragon Capital tạo môi trường đầu tư chứng chỉ quỹ trực tiếp trên ứng dụng ngân hàng số cùng với nhiều tiện ích cho những nhà đầu tư mới hay nhỏ lẻ.

Về các dịch vụ hỗ trợ thị trường

Dịch vụ hỗ trợ thị trường bao gồm các ứng dụng công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), Blockchain, điện toán đám mây, dữ liệu lớn... Việc ứng dụng các tiện ích công nghệ này vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam đã và đang làm thay đổi cơ cấu, phương thức hoạt động vận hành và cung cấp các dịch vụ hiện đại của hệ thống ngân hàng, hình thành các sản phẩm, dịch vụ tài chính mới, tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiết kiệm chi phí giao dịch. TPBank là một trong những ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng AI vào hoạt động ngân hàng. Cụ thể, hệ thống LiveBank đã giúp khách hàng đăng kí vân tay, nhận diện khuôn mặt trong vòng 1 phút hay giải pháp định danh điện tử (eKYC) đã giúp khách hàng đăng kí, đăng nhập tài khoản chỉ trong vòng 5 giây. Ngoài ra, cuối năm 2021, MB đã trở thành NHTM cổ phần đầu tiên tại Việt Nam tham gia mạng lưới Contour để triển khai thương mại dịch vụ thư tín dụng (L/C) ứng dụng công nghệ Blockchain. Dịch vụ L/C ứng dụng Blockchain của MB cho phép thực hiện đầy đủ các quy trình kinh doanh đối với thư tín dụng, từ phát hành đến xuất trình chứng từ theo L/C trên cùng mạng Contour. Dịch vụ này cũng đánh dấu bước tiến mới của MB trong lộ trình chuyển đổi số hoạt động tài chính, ngân hàng, cụ thể là số hóa sản phẩm, dịch vụ dành cho khách hàng xuất nhập khẩu, tối ưu hóa trải nghiệm của khách hàng.

4. Thách thức đối với các NHTM tại Việt Nam


Thứ nhất, việc các công ty Fintech tham gia vào các hoạt động liên quan đến ngân hàng đã gia tăng sự cạnh tranh và thách thức cho các ngân hàng hiện có. Fintech góp phần làm tăng khả năng gia nhập thị trường đối với các doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ, truyền thông và viễn thông. Các công ty Fintech cung cấp giải pháp và dịch vụ đa dạng, đặc biệt là thanh toán và cho vay, điều này sẽ đe dọa thị phần của ngân hàng và gây khó khăn trong việc ngân hàng xác định lại chiến lược phát triển.

Thứ hai, tại Việt Nam, hành lang pháp lí để hỗ trợ, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa ngân hàng - công ty Fintech và phát triển hệ sinh thái Fintech chưa thực sự hoàn thiện. Do vậy, Việt Nam cần sớm xây dựng một khung quản lí, cơ chế rà soát hoạt động Fintech nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của người sử dụng dịch vụ.

Thứ ba, sự phát triển của Fintech cũng dẫn đến sự thay đổi hành vi khách hàng khi sử dụng dịch vụ tài chính. Fintech thay đổi cách thức khách hàng tương tác với các dịch vụ tài chính, chuyển dịch nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng sang các kênh giao dịch trực tuyến và điện thoại thông minh thay vì phải tới các chi nhánh của ngân hàng để thực hiện hàng loạt các thủ tục rườm rà. Họ mong muốn trải nghiệm liền mạch, cá nhân hóa và dễ dàng truy cập mọi lúc mọi nơi. Các ngân hàng truyền thống cần thích ứng nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu mới này.

Thứ tư, các NHTM luôn có độ trễ nhất định về mặt công nghệ so với các công ty Fintech. Các công ty Fintech ứng dụng linh hoạt công nghệ trong việc thiết kế sản phẩm, dịch vụ nhằm mang đến những trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng với chi phí rẻ hơn và thu hút được những nguồn đầu tư lớn hơn. Hơn nữa đầu tư vào công nghệ thông tin thường tốn rất nhiều chi phí, thời gian và nhân lực, các NHTM cần cân nhắc để đảm bảo hài hòa giữa mục tiêu lợi nhuận và tối ưu hóa chi phí.

Thứ năm, Fintech phát triển cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro công nghệ thông tin trên phạm vi hệ thống. Vì NHTM là nơi lưu trữ một lượng lớn thông tin khách hàng nên khi Fintech phát triển mạnh sẽ phát sinh nhiều vấn đề hơn. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của Fintech khiến an ninh mạng và việc bảo vệ khách hàng cũng như người tiêu dùng trong môi trường Fintech trở nên khó khăn hơn trước. Do những hạn chế của hạ tầng mạng viễn thông, sự mở rộng của mạng xã hội khiến cho bảo mật thông tin khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro khi khách hàng dễ dàng cung cấp thông tin cho các nền tảng, trang web không an toàn hoặc thậm chí lừa đảo qua mạng. Các ngân hàng truyền thống cũng cần nâng cao khả năng bảo mật để bảo vệ dữ liệu khách hàng và tránh rủi ro gian lận.

Thứ sáu, các NHTM bị thiếu hụt nguồn nhân lực chuyên môn liên quan việc ứng dụng các giải pháp công nghệ mới và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin để tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM sử dụng công nghệ tiên tiến. Tại Việt Nam, nguồn nhân lực có kĩ năng chuyên môn về tài chính, ngân hàng chiếm số lượng rất lớn nhưng kĩ năng về công nghệ thông tin và ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu, dẫn đến tình trạng ngành Ngân hàng hiện nay đang phải đối mặt với xu hướng thiếu hụt nhân sự chất lượng cao trong các lĩnh vực chuyên sâu gắn với công nghệ và có trình độ ngoại ngữ đạt tiêu chuẩn.

5. Kết luận

Sự xuất hiện của Fintech đã dẫn đến các thay đổi mang tính cấu trúc và cách thức vận hành của hệ thống ngân hàng nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của các công ty Fintech là một bằng chứng sinh động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng trên toàn cầu và tạo ra nhiều giá trị cho người sử dụng. Từ quá trình phát triển của Fintech cho thấy, đây tiếp tục là một lĩnh vực có sự tăng tốc mạnh mẽ trong tương lai, tạo ra những tác động mạnh đến hoạt động của hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh đó, gia tăng hợp tác với các công ty Fintech là một hướng đi phù hợp để các ngân hàng Việt Nam có thể nhanh chóng khai thác được các lợi thế so sánh và hạn chế được những tác động bất lợi có thể xảy ra. Tuy nhiên, các ngân hàng cần thực hiện các bước cải tổ mạnh mẽ, đặc biệt trong việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin để luôn giữ vai trò là động lực phát triển trong hệ thống tài chính. Đồng thời, cần có sự tham gia và hỗ trợ từ Chính phủ, NHNN để triển khai các giải pháp để hoàn thiện hệ sinh thái Fintech, hỗ trợ cho sự phát triển của các chủ thể tham gia thị trường trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ.

Tài liệu tham khảo:

1. Acclime Vietnam (2023), The Advance of Fintech in Vietnam.

2. Acclime Vietnam (2023), Vietnam Fintech Brief in 2023.

3. Law Business Research Ltd (2021), Fintech 2022.

4. Reputa (2023), Bảng xếp hạng ngành Fintech năm 2023.

5. UOB, PwC Singapore and Singapore Fintech Association (2022), Fintech in ASEAN Report 2022: Finance, reimagined.


ThS. Đào Mỹ Hằng, Lê Thị Diệu Linh

Học viện Ngân hàng


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng