Quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng: Bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thị trường tài chính
Chào bán chứng khoán là một hoạt động được pháp luật cho phép nhằm tạo điều kiện cho tổ chức phát hành huy động vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình.
aa

Tóm tắt: Chào bán chứng khoán là một hoạt động được pháp luật cho phép nhằm tạo điều kiện cho tổ chức phát hành huy động vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình. Để việc chào bán chứng khoán phát huy ý nghĩa, nâng cao hiệu quả huy động vốn cho tổ chức phát hành nói riêng và nền kinh tế nói chung thì những quy định pháp luật về hoạt động này đã có nhiều thay đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán (TTCK). Tuy nhiên, không phải tổ chức phát hành nào cũng tuân thủ theo đúng các quy định pháp luật nên các chế tài đưa ra nhằm xử lý các hoạt động vi phạm là điều tất yếu. Bài viết này không nghiên cứu tất cả vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng, mà để đảm bảo tính chuyên sâu, bài viết chỉ nghiên cứu về các bất cập và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng.

Từ khóa: Chứng khoán, chào bán chứng khoán ra công chúng, xử phạt vi phạm hành chính, tổ chức phát hành.

REGULATIONS ON SANCTIONING ADMINISTRATIVE VIOLATIONS FOR PUBLIC OFFERING ACTIVITIES: INADEQUACIES AND RECOMMENDATIONS

Abstract: Securities offering is an activity permitted by law to create conditions for issuers to raise capital to meet their business needs. In order for the securities offering activity to be meaningful, improving the efficiency of capital mobilization for issuers in particular and for the economy in general, the legal regulations on this activity also have changed a lot to meet the needs of businesses and ensure the stable development of the stock market. However, not all issuers comply with the law, so the sanctions introduced to handle activities that violate the law are inevitable. This article does not study all legal issues about public securities offering, but to ensure professionalism, the article only studies the inadequacies and makes recommendations to improve the legal regulations on sanctioning administrative violations for securities offering to the public.

Keywords: Securities, public offering of securities, administrative violations sanction, issuer.


Chỉ tính riêng năm 2023, tổng giá trị huy động vốn qua TTCK đạt 418.271 tỉ đồng, tăng 33,5% so với năm 2022

1. Đặt vấn đề

Hoạt động chào bán chứng khoán là hoạt động được các tổ chức phát hành thực hiện trên TTCK sơ cấp để huy động vốn, đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Chỉ tính riêng năm 2023, tổng giá trị huy động vốn qua TTCK đạt 418.271 tỉ đồng, tăng 33,5% so với năm 20221. Sự tăng trưởng này xuất phát từ những ưu điểm của hoạt động huy động vốn thông qua hoạt động chào bán chứng khoán so với các kênh huy động vốn khác như vay từ các tổ chức tín dụng, vay của tổ chức kinh tế khác. Qua đó cho thấy, hoạt động chào bán chứng khoán đã thực sự trở thành một kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển2. Tuy nhiên, quá trình phát triển của TTCK sơ cấp đã và đang bộc lộ một số vấn đề như: Tính công khai, minh bạch còn hạn chế, việc xử lý chưa hiệu quả đối với các hành vi vi phạm làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư… Bên cạnh đó, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động chào bán chứng khoán cũng bộc lộ nhiều nội dung chưa chính xác, chưa hợp lý tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Mặc dù Luật Chứng khoán năm 2019, Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK (Nghị định số 156/2020/NĐ-CP), Nghị định số 128/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP (Nghị định số 128/2021/NĐ-CP) đã được ban hành nhằm từng bước hoàn thiện các nội dung xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này, nhưng các quy định trong những văn bản nêu trên vẫn còn nhiều điểm bất cập và cần hoàn thiện.

2. Những hạn chế, bất cập trong quy định về xử phạt đối với hoạt động chào bán chứng khoán của doanh nghiệp

Bên cạnh việc nhiều hành vi vi phạm pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng, chào bán chứng khoán riêng lẻ được Nghị định số 156/2020/NĐ-CP, Nghị định số 128/2021/NĐ-CP ghi nhận, chia tách và có những mức xử phạt thích đáng hơn so với các văn bản trước đó, thì hai văn bản pháp luật này vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập sau:

Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa quy định hợp lý về chế tài đối với hành vi vi phạm của tổ chức tư vấn về hồ sơ chào bán chứng khoán. Điểm g khoản 1, điểm a khoản 2, điểm đ khoản 3 Điều 15 Luật Chứng khoán năm 2019 quy định một trong các điều kiện để tổ chức phát hành có thể chào bán chứng khoán ra công chúng là phải: Có công ty chứng khoán tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán (chào bán cổ phiếu lần đầu, chào bán thêm cổ phiếu, chào bán trái phiếu) ra công chúng, trừ trường hợp tổ chức phát hành là công ty chứng khoán. Điều này cho thấy, hoạt động này luôn có sự đồng hành của công ty chứng khoán trong quá trình đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng. Sự đồng hành của công ty chứng khoán trong quá trình này còn tiếp tục được khẳng định khi yêu cầu trong bản cáo bạch phải có chữ ký của tổ chức tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng3. Tuy nhiên, khi tổ chức tư vấn về hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng có hành vi vi phạm (tổ chức tư vấn có hành vi tư vấn sai cho tổ chức phát hành, hỗ trợ tổ chức phát hành đưa ra các thông tin không chính xác trong hồ sơ đăng ký…) thì pháp luật chưa quy định rõ ràng chế tài đối với chủ thể này. Có thể có quan điểm cho rằng, khi tổ chức tư vấn hồ sơ vi phạm thì sẽ chịu các chế tài được xác định tại Điều 9 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP. Tuy vậy, theo tác giả, quan điểm đó là chưa chính xác vì những chế tài quy định tại Điều 9 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP đề cập đến chủ thể bị xử lý vi phạm chính là tổ chức phát hành chứng khoán mà không hướng đến xử lý các chủ thể tham gia khác trong hoạt động chào bán này. Bởi lẽ khi xem xét các quy định hình thức xử phạt bổ sung của hành vi vi phạm này thì không có một nội dung nào đề cập để xử lý đối với công ty chứng khoán khi sai phạm trong quá trình tư vấn chào bán chứng khoán ra công chúng, ví dụ như đình chỉ hoạt động tư vấn.


Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)


Có thể sẽ có quan điểm cho rằng, Điều 9 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP là quy định về xử phạt tổ chức phát hành, còn công ty chứng khoán khi thực hiện hoạt động tư vấn sai này sẽ chịu các chế tài quy định trong nhóm quy định về hành vi về kinh doanh chứng khoán và hành nghề chứng khoán. Tuy nhiên, khi khảo sát các quy định về nhóm hành vi này thì Nghị định này cũng không có bất kỳ quy định nào xử lý đối với hành vi sai phạm trên của công ty chứng khoán khi tư vấn hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng.

Thứ hai, quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định về thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng còn nhiều bất cập. Cụ thể:

Một là, quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết chắc chắn là chưa hợp lý. Cụ thể: Điểm b khoản 3 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP quy định: “Phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng đối với tổ chức bảo lãnh phát hành khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: …b) Thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng theo hình thức cam kết chắc chắn với tổng giá trị chứng khoán lớn hơn vốn chủ sở hữu hoặc vượt quá 15 lần hiệu số giữa giá trị tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn tính theo báo cáo tài chính quý gần nhất”.

Có lẽ quy định này liên quan đến khoản 2 Điều 17 Luật Chứng khoán năm 2019. Tuy nhiên, quy định tại điểm b khoản 3 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP có điểm bất hợp lý, vì tại khoản 2 Điều 17 Luật Chứng khoán năm 2019 quy định: “Tổ chức thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng thực hiện bảo lãnh theo phương thức nhận mua một phần hoặc toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành chỉ được phép bảo lãnh phát hành tổng giá trị chứng khoán không được lớn hơn vốn chủ sở hữu và không quá 15 lần hiệu số giữa giá trị tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn tính theo báo cáo tài chính quý gần nhất”. Theo đó, phương thức được nhắc đến ở đây là “phương thức nhận mua một phần hoặc toàn bộ chứng khoán” mà không phải là “phương thức cam kết chắc chắn”. Hai khái niệm này là không trùng nhau. Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có định nghĩa rõ ràng về hình thức “cam kết chắc chắn” mà thuật ngữ này được nêu tại khoản 2 Điều 23 và khoản 6 Điều 28 Thông tư số 121/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về hoạt động của công ty chứng khoán. Thuật ngữ này trước đây có định nghĩa tại khoản 9 Điều 2 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán như sau: “Cam kết chắc chắn là hình thức mà tổ chức bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết”. Có thể hiểu quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật Chứng khoán năm 2019 đề cập đến hành vi rộng hơn so với “cam kết chắc chắn”. Tại sao chỉ khi thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng theo hình thức cam kết chắc chắn với tổng giá trị chứng khoán lớn hơn vốn chủ sở hữu hoặc vượt quá 15 lần hiệu số giữa giá trị tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn tính theo báo cáo tài chính quý gần nhất mới bị xử lý? Còn nếu tổ chức thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng thực hiện bảo lãnh theo phương thức nhận mua một phần chứng khoán của tổ chức phát hành làm cho tổng giá trị chứng khoán bảo lãnh phát hành lớn hơn vốn chủ sở hữu và vượt quá 15 lần hiệu số giữa giá trị tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn tính theo báo cáo tài chính quý gần nhất thì không bị xử phạt, trong khi rõ ràng hành vi này cũng là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật Chứng khoán năm 2019?

Hai là, quy định về xử phạt đối với hành vi vi phạm về thay đổi phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng là chưa đúng. Bởi theo quy định tại điểm a khoản 9 Điều 1 Nghị định số 128/2021/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 4 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP) như sau: “Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: …b) Thay đổi phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng nhưng không thông qua Đại hội đồng cổ đông hoặc khi chưa được Đại hội đồng cổ đông ủy quyền thực hiện hoặc thực hiện thay đổi phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng khi được Đại hội đồng cổ đông ủy quyền với giá trị thay đổi từ 50% trở lên số vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, trừ trường hợp chào bán trái phiếu không chuyển đổi, không kèm chứng quyền theo phương án được Hội đồng quản trị thông qua; sử dụng số vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng không đúng với phương án đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua hoặc nội dung đã công bố thông tin cho nhà đầu tư hoặc nội dung đã báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; không báo cáo việc thay đổi phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng tại Đại hội đồng cổ đông gần nhất”. Tuy nhiên, điều này là hoàn toàn không hợp lý, bởi “việc thay đổi phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành” có thể được quyết định bởi Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty”4 tùy loại chứng khoán chào bán và chủ thể phát hành. Việc quy định như điểm a khoản 9 Điều 1 Nghị định số 128/2021/NĐ-CP là chưa bao quát và bỏ sót các hành vi vi phạm nếu chủ thể phát hành là công ty trách nhiệm hữu hạn. Rõ ràng, công ty trách nhiệm hữu hạn cũng được quyền phát hành trái phiếu ra công chúng và khi nó thay đổi mục đích sử dụng vốn thì không bị xử phạt. Quy định trên cho thấy việc xử phạt này mới chỉ áp dụng cho việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần. Việc bỏ sót này là không đảm bảo sự công bằng khi cùng một hành vi vi phạm lại có hành vi không bị xử phạt, có hành vi bị xử phạt.

Ba là, quy định về xử phạt đối với hành vi chào bán chứng khoán ra công chúng khi chưa đáp ứng đủ điều kiện theo quy định pháp luật là bất hợp lý. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1 đến khoản 4 Điều 15 Luật Chứng khoán năm 2019 thì trong các điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng có những điều kiện mà tổ chức phát hành cần phải đảm bảo trước khi được chào bán chứng khoán ra công chúng, nhưng cũng có những điều khoản chỉ khi nào việc chào bán hoàn thành mới đánh giá được hay không được đảm bảo như: “tối thiểu là 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành phải được bán cho ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn; trường hợp vốn điều lệ của tổ chức phát hành từ 1.000 tỉ đồng trở lên, tỉ lệ tối thiểu là 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”5, “Đối với đợt chào bán ra công chúng nhằm mục đích huy động phần vốn để thực hiện dự án của tổ chức phát hành, cổ phiếu được bán cho các nhà đầu tư phải đạt tối thiểu là 70% số cổ phiếu dự kiến chào bán”6 hoặc sau khi đợt phát hành chứng khoán hoàn thành và thực hiện các bước tiếp theo mới đánh giá là đủ điều kiện chưa như: “Tổ chức phát hành có cam kết và phải thực hiện niêm yết trái phiếu trên hệ thống giao dịch chứng khoán sau khi kết thúc đợt chào bán”7. Tuy nhiên, điểm a khoản 5 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP lại quy định: “Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 600.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: a) Chào bán chứng khoán ra công chúng khi chưa đáp ứng đủ điều kiện theo quy định pháp luật”. Như vậy, nếu căn cứ đúng quy định thì hầu như tổ chức phát hành nào cũng bị xử phạt theo quy định này. Vẫn biết rằng bất cập của quy định là bắt nguồn từ quy định về điều kiện chào bán chứng khoán, nhưng nếu vẫn để điều khoản trên thì quy định phạt trong trường hợp này là chưa hợp lý.

Bốn là, quy định về xử phạt đối với tổ chức thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành còn điểm chưa hợp lý. Điểm d khoản 5 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP quy định: “Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 600.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: …d) Không thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng theo cam kết bảo lãnh phát hành trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng”. Nhìn cơ bản thì quy định này cũng hợp lý vì rõ ràng đó cũng là hành vi vi phạm của tổ chức bảo lãnh phát hành trong quá trình chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, nếu xém xét kỹ hơn có thể thấy có những điểm bất hợp lý là quy định này chỉ xử phạt khi tổ chức bảo lãnh phát hành “không thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng theo cam kết bảo lãnh phát hành trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng”, còn nếu tổ chức bảo lãnh phát hành không thực hiện đầy đủ, đúng các nghĩa vụ trong cam kết bảo lãnh phát hành thì sao? Bởi lẽ bản chất của quy định trên là nhằm xử lý tổ chức bảo lãnh phát hành, vì hành vi vi phạm của họ làm ảnh hưởng đến đợt chào bán chứng khoán, kế hoạch huy động vốn của tổ chức phát hành và cả lợi ích của nhà đầu tư đăng ký. Vì vậy, cần phải xử lý cả trường hợp khi tổ chức phát hành không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cam kết bảo lãnh phát hành trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng.

3. Kiến nghị hoàn thiện

Với những bất cập trong quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi chào bán chứng khoán ra công chúng nêu trên, tác giả có một số kiến nghị hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện quy định hành vi vi phạm của tổ chức tư vấn về hồ sơ phát hành trái phiếu. Theo tác giả, cần phải bổ sung vào Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính với những yêu cầu sau:

1. Quy định mức xử phạt tiền cụ thể với hành vi vi phạm này. Theo đó, mức xử phạt hành vi vi phạm này sẽ tương ứng với hành vi vi phạm được xác định tại khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP vì tính chất và mức độ ảnh hưởng của hành vi vi phạm đến TTCK và nhà đầu tư là tương đương với các hành vi vi phạm được quy định tại khoản này.

2. Bổ sung thêm hình phạt bổ sung đối với tổ chức tư vấn vi phạm. Theo đó, bổ sung hình phạt bổ sung cấm thực hiện hoạt động này trong thời gian nhất định (có thể từ 3 đến 6 tháng). Quy định trên nhằm đảm bảo các công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn càng cần phải thận trọng, hoạt động tư vấn một cách có trách nhiệm hơn vì nếu không thì không những họ bị phạt tiền mà còn bị cấm hoạt động, càng làm ảnh hưởng đến tài chính của họ.

3. Chuyển quy định xử phạt đối với công ty chứng khoán khi thực hiện hoạt động tư vấn hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng xuống nhóm xử lý vi phạm khi kinh doanh dịch vụ. Bởi lẽ bản chất hành vi này chính là hành vi vi phạm khi tiến hành hoạt động cung ứng dịch vụ của công ty nên việc đẩy quy định xử phạt xuống nhóm dưới để dễ thấy là cùng hành vi vi phạm trong hoạt động cung ứng dịch vụ của công ty chứng khoán thì nằm chung một nhóm quy định xử lý.

Thứ hai, hoàn thiện quy định xử phạt vi phạm hành chính cho các hành vi vi phạm quy định về thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng. Cụ thể:

Một là, hoàn thiện quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định bảo lãnh phát hành. Đối với bất cập về nội dung này, tác giả đề nghị cần sửa đổi, bổ sung quy định về xử phạt đối với chủ thể này theo quy định trong Nghị định số 156/2020/NĐ-CP như sau: “Phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng đối với tổ chức bảo lãnh phát hành khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: …b) Thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật Chứng khoán năm 2019”. Vì khi đó, không chỉ công ty chứng khoán tiến hành bảo lãnh phát hành chứng khoán theo hình thức cam kết chắc chắn vi phạm mà kể cả khi công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành theo các phương thức khác vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật Chứng khoán năm 2019 đều bị xử lý. Điều này không những đảm bảo tính logic giữa quy định của Luật Chứng khoán năm 2019 và Nghị định hướng dẫn thi hành mà còn đảm bảo tính công bằng khi đã là hành vi vi phạm thì phải chịu chế tài của pháp luật.

Bên cạnh đó, cũng cần xem xét sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 5 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP cho phù hợp, với việc cân nhắc xem xét và phân thành hai mức xử phạt vi phạm. Hành vi phạt nhẹ hơn nếu tổ chức bảo lãnh phát hành thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ theo đúng cam kết bảo lãnh phát hành trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng. Còn nếu tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán “không thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng theo cam kết bảo lãnh phát hành trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng” thì mức xử phạt cao hơn. Việc phân tách này nhằm đảm bảo xử lý phù hợp với từng hành vi vi phạm và hướng đến bảo vệ nhà đầu tư, tổ chức phát hành trên TTCK.

Hai là, hoàn thiện quy định về xử phạt đối với hành vi vi phạm về thay đổi phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Theo đó, căn cứ vào quy định tại điểm c khoản 3 Điều 15 Luật Chứng khoán năm 2019 thì Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty có quyền thông qua phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng nên cần sửa đổi quy định tại điểm b khoản 4 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP thành như sau: “Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: …b) Thay đổi mục đích hoặc phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng nhưng không thông qua Đại hội đồng cổ đông hoặc khi chưa được Đại hội đồng cổ đông ủy quyền thực hiện hoặc thay đổi phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng với giá trị thay đổi từ 50% trở lên số tiền thu được từ đợt chào bán, trừ trường hợp chào bán trái phiếu không chuyển đổi, không kèm chứng quyền theo phương án được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua; sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng không đúng với mục đích, phương án đã được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua hoặc nội dung đã công bố thông tin cho nhà đầu tư hoặc nội dung đã báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước”. Việc sửa đổi trên nhằm đảm bảo tính tương thích và không xung đột của các quy định pháp luật trong nội dung này.

Khi sửa đổi, bổ sung điều khoản trên thì cũng sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 8 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP thành: “Buộc thông qua Đại hội đồng cổ đông, hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên gần nhất hoặc chủ sở hữu công ty theo quy định về việc thay đổi mục đích hoặc phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 4 Điều này”. Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm đảm bảo đúng quy định về thẩm quyền của các cơ quan trong việc thay đổi mục đích hoặc phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng.

Ba là, hoàn thiện quy định về xử phạt đối với hành vi chào bán chứng khoán ra công chúng liên quan đến việc đáp ứng đủ điều kiện chào bán theo quy định pháp luật. Theo đó, bổ sung thêm cụm từ “trừ khi đó là điều kiện được xác định sau khi thực hiện hoạt động chào bán” vào điểm a khoản 5 Điều 10 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP: “Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 600.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: a) Chào bán chứng khoán ra công chúng khi chưa đáp ứng đủ điều kiện theo quy định pháp luật, trừ khi đó là điều kiện được xác định sau khi thực hiện hoạt động chào bán”. Khi đó, sau khi chào bán, nếu tổ chức phát hành không đáp ứng được yêu cầu có “tối thiểu là 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành phải được bán cho ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn; trường hợp vốn điều lệ của tổ chức phát hành từ 1.000 tỉ đồng trở lên, tỉ lệ tối thiểu là 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”, “đối với đợt chào bán ra công chúng nhằm mục đích huy động phần vốn để thực hiện dự án của tổ chức phát hành, cổ phiếu được bán cho các nhà đầu tư phải đạt tối thiểu là 70% số cổ phiếu dự kiến chào bán” hoặc sau khi đợt phát hành chứng khoán hoàn thành và thực hiện các bước tiếp theo mới đánh giá là đủ điều kiện chưa như “tổ chức phát hành có cam kết và phải thực hiện niêm yết trái phiếu trên hệ thống giao dịch chứng khoán sau khi kết thúc đợt chào bán” thì đợt chào bán đó bị hủy bỏ chứ tổ chức phát hành không bị xử phạt. Việc sửa đổi trên nhằm đảm bảo tính logic của quy định trong tổng thể.

Tóm lại, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng trong Luật Chứng khoán năm 2019, Nghị định số 156/2020/NĐ-CP và Nghị định số 128/2021/NĐ-CP đang tồn tại những bất cập nhất định làm cho việc xử phạt vi phạm chưa thật sự chính xác, công bằng. Vì vậy, những kiến nghị trên của tác giả mong muốn góp phần nhỏ trong việc hoàn thiện các quy định này giúp cho việc xử phạt vi phạm hành chính đảm bảo tính hợp lý, đồng bộ và thống nhất nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của nhà đầu tư trên TTCK.

1 Thiên An (2024), “TTCK huy động hơn 410 nghìn tỉ đồng trong năm 2023”, https://daibieunhandan.vn/kinh-te-xa-hoi/thi-truong-chung-khoan-huy-dong-hon-410-nghin-ty-dong-trong-nam-2023-i360372/, truy cập ngày 01/7/2024

2 Phạm Bảo Anh (2022), “Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam”, https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-thi-truong-chung-khoan-viet-nam.html, truy cập ngày 02/7/2024
3 Điểm a khoản 3 Điều 19 Luật Chứng khoán năm 2019
4 Khoản 2 Điều 9 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán.
5 Điểm d khoản 1 Điều 15 Luật Chứng khoán năm 2019
6 Điểm d khoản 2 Điều 15 Luật Chứng khoán năm 2019
7 Điểm i khoản 3 Điều 15 Luật Chứng khoán năm 2019


TS. Phan Phương Nam
Phó Trưởng Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xác định phong cách đầu tư: Góc nhìn tài chính hành vi

Xác định phong cách đầu tư: Góc nhìn tài chính hành vi

Bài viết làm rõ phân loại nhà đầu tư, phong cách đầu tư tương ứng, đồng thời, phân tích ý nghĩa của việc xác định phong cách từ góc độ tài chính hành vi và trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm đánh giá về việc áp dụng các phong cách đầu tư làm gia tăng hiệu quả của danh mục, cũng như hiệu quả quản lý thị trường chứng khoán.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh bất định toàn cầu

Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh bất định toàn cầu

Trong giai đoạn gần 5 năm vừa qua, Việt Nam vẫn giữ ổn định nền kinh tế, nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng, cho thấy khả năng chống chịu và thích ứng với biến động bên ngoài của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Đề án nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam không chỉ là một dấu mốc kỹ thuật trong phân loại quốc tế, mà còn góp phần tăng quy mô vốn hóa và thanh khoản ổn định, nâng cao chất lượng doanh nghiệp niêm yết, củng cố năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng, đồng thời cải thiện vị thế và hình ảnh quốc gia trên bản đồ tài chính toàn cầu.
Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng thông qua giáo dục tài chính là rất cần thiết nhằm nâng cao dân trí tài chính, giúp người dân hiểu rõ hơn về các kiến thức liên quan, tiếp cận công cụ tài chính an toàn, quản lý tài chính cá nhân hiệu quả và giảm thiểu rủi ro từ tín dụng đen và các hình thức lừa đảo, đặc biệt là lừa đảo trực tuyến.
Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết về một mô hình quản trị linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Giang, giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng cường tính minh bạch, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon là cơ chế áp thuế carbon lên hàng hóa nhập khẩu vào EU, với mục đích bảo đảm rằng hàng hóa sản xuất bên ngoài EU không được hưởng lợi từ việc phát thải cao hơn tiêu chuẩn của EU, được đề xuất chính thức vào tháng 7/2021 và bắt đầu áp dụng thử nghiệm vào năm 2023, với việc triển khai toàn diện dự kiến từ năm 2026.
Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Bài viết này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò như một nền tảng khởi đầu, góp phần đặt ra vấn đề triển khai bước đầu cho cơ chế giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn tiếp tục mở rộng đối thoại học thuật và thực tiễn, thu hút sự tham gia của cộng đồng nghiên cứu, giới chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng trao đổi, làm rõ và phát triển các yếu tố pháp lý - công nghệ - vận hành cần thiết cho việc hiện thực hóa cơ chế này trong thời gian tới.
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Trong kỷ nguyên số hóa toàn diện, hành vi tiêu dùng đang chuyển dịch mạnh mẽ, đặc biệt trong phương thức thanh toán, mô hình mua trước trả sau ngày càng phổ biến nhờ tính linh hoạt, không yêu cầu thẻ tín dụng và không phát sinh lãi suất trong ngắn hạn.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô