Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam ở nước ngoài và vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới

Nghiên cứu - Trao đổi
Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam sang nước ngoài được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chính phủ và doanh nghiệp nhằm xuất khẩu, phân phối hàng hóa của Việt Nam ra nước n...
aa

Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam sang nước ngoài được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chính phủ và doanh nghiệp nhằm xuất khẩu, phân phối hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài...

Cùng với các chính sách của Nhà nước về thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài, xu hướng gia tăng nhanh số lượng, quy mô các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực phân phối của các doanh nghiệp Việt Nam tuy đã đạt được một số thành công nhất định, nhưng cần có những hướng đi cụ thể với những giải pháp đồng bộ để phát triển hệ thống phân phối hàng hóa vững chắc, làm cầu nối cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xuất khẩu trong thời kỳ mới. Bài viết đánh giá về hoạt động phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam ra nước ngoài giai đoạn 2016 - 2020 và một số vấn đề đặt ra đối với hệ thống phân phối hàng hóa ở Việt Nam trong giai đoạn tới.



Hàng nông sản Việt Nam được người tiêu dùng của nhiều quốc gia quan tâm, đón nhận

1. Một số đánh giá về hoạt động phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam ra nước ngoài giai đoạn 2016 - 2020

1.1. Những kết quả đạt được

Trong giai đoạn 2016 - 2020, hoạt động phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam ra nước ngoài đã đạt được một số kết quả quan trọng cả từ phía Nhà nước và doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, với sự nỗ lực trong việc đàm phán, tiến tới ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTAs), cũng như các hiệp định đa phương khác có liên quan; tổ chức xúc tiến thương mại tại các nước... đã tạo điều kiện thuận lợi và góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang các nước và vùng lãnh thổ.

Cụ thể: (i) Số lượng các doanh nghiệp Việt Nam tham gia phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang các quốc gia có xu hướng gia tăng; (ii) Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang mở rộng hoạt động phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang nhiều nước; (iii) Các phương thức và hình thức phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước tương đối phù hợp với điều kiện thực tế và trình độ phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam:

Phát triển hình thức xuất khẩu trực tiếp hàng hóa vào các hệ thống phân phối hiện đại

Hầu hết đại diện các tập đoàn phân phối lớn trên thế giới đang có mặt ở Việt Nam như Walmart, Central Group, Aeon, Lotte, Decathlon,… sẵn sàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam tìm kiếm cơ hội xuất khẩu các sản phẩm gốc Việt vào hệ thống phân phối với những tiêu chuẩn tuyển chọn hàng hóa khá khắt khe của họ.

Hàng Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều trong các đại siêu thị, trong các hệ thống phân phối hiện đại tại nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển khá tốt phương thức xuất khẩu hàng hóa thông qua các siêu thị lớn đang đầu tư tại Việt Nam. Giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu qua hệ thống phân phối hiện đại đang hiện diện tại Việt Nam tăng dần qua các năm. Chủng loại mặt hàng của Việt Nam đã có sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng, hàng hóa được trưng bày có sự đa dạng về chủng loại và mẫu mã, với rất nhiều loại mặt hàng như trái cây tươi (dừa, thanh long, chuối…), hàng thực phẩm chế biến (mì, phở ăn liền, gia vị, bia - rượu - nước giải khát…), hàng may mặc, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ… Hàng Việt Nam được người tiêu dùng của nhiều quốc gia quan tâm và đón nhận. Trong đó, hàng nông sản chủ yếu là mặt hàng quả tươi (như thanh long, xoài, chuối, vải, khoai lang, ớt chuông, củ dền,…) và thủy sản (như cá tra đông lạnh, mực,...). Bên cạnh đó, xuất hiện những mặt hàng nông sản chế biến thương hiệu Việt.

Sản phẩm Việt Nam xuất khẩu vào hệ thống phân phối hiện đại ở nước ngoài được đưa vào một số thị trường khó tính như Nhật Bản (tập đoàn Aeon), Mỹ (Walmart), Pháp và Thái Lan (Big C MM Mega Market), Ý (Central Retail)… Tại châu Á gồm có Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Trung Quốc; tại châu Âu: Ý, Pháp, Anh; tại châu Mỹ: Hoa Kỳ và một số thị trường các quốc gia châu Phi.

Số lượng doanh nghiệp Việt Nam trở thành nhà cung cấp hàng hóa xuất khẩu thông qua các hệ thống phân phối hiện đại hiện diện tại Việt Nam ngày càng tăng.

Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Trong những năm qua, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam có tiến triển tích cực với số dự án và vốn đăng ký năm sau luôn cao hơn năm trước. Điều này cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ tập trung đầu tư ở trong nước mà còn mở rộng đầu tư ra nước ngoài để khẳng định thương hiệu, vị thế của mình trên trường quốc tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vào lĩnh vực này đa dạng, phong phú nhiều ngành nghề như: Thông tin truyền thông, y tế, giáo dục đào tạo, tài chính - ngân hàng, bất động sản, kho bãi, giao thông vận tải, giải trí, nghệ thuật… Trong đó, lĩnh vực dịch vụ phân phối có tổng số vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tăng, đến năm 2020, con số tương ứng là 602,1 triệu USD. Các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ phân phối (bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác) là các lĩnh vực có số lượng dự án đầu tư ra nước ngoài cao nhất trong khu vực dịch vụ. Số lượng các doanh nghiệp Việt Nam tham gia phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang nước ngoài có xu hướng gia tăng.

Mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức về số lượng các doanh nghiệp Việt Nam phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang nước ngoài, nhưng thực tế qua các hội chợ thương mại Việt Nam ở các nước này cho thấy, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam đang và dự kiến tìm kiếm đối tác để phát triển hệ thống phân phối ra nước ngoài đang có xu hướng gia tăng mạnh trong những năm gần đây.

- Mở rộng hoạt động phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam. Giai đoạn đầu, các doanh nghiệp Việt Nam phát triển hệ thống phân phối hàng hóa qua biên giới sang các nước Lào và Campuchia do những điều kiện thuận lợi có chung đường biên giới đất liền. Sau đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã và đang đẩy mạnh phát triển hệ thống phân phối sang Myanmar để khai thác tiềm năng của thị trường này. Đối với thị trường Thái Lan, mặc dù Việt Nam có sự tương đồng về cơ cấu hàng hóa cộng với những hạn chế về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã có bước đầu tìm kiếm cơ hội phát triển hệ thống phân phối thông qua hội chợ tại Thái Lan.

Bên cạnh các quốc gia Đông Nam Á, một số doanh nghiệp của Việt Nam đã đầu tư cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp tại các quốc gia phát triển hơn như Hàn Quốc, Singapore, thậm chí là Nhật Bản và Mỹ, trong đó, phần lớn là các loại thực phẩm như cà phê, sữa,... Việc doanh nghiệp Việt Nam tăng đầu tư sang các thị trường lớn, có trình độ công nghệ, khoa học kỹ thuật cao như Mỹ, Canada, châu Âu... là tín hiệu tốt, cho thấy chất lượng đầu tư được cải thiện.

- Hàng hóa Việt Nam được cung cấp sang các nước qua các hệ thống phân phối của doanh nghiệp có sự gia tăng về quy mô và cơ cấu mặt hàng.

- Các phương thức và hình thức phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước phù hợp với điều kiện thực tế và tương đối đa dạng với phương thức hiện diện của thể nhân (lực lượng thương nhân mang hàng hóa sang bán tại các chợ biên giới của Lào và Campuchia), cũng như phương thức tiêu dùng dịch vụ phân phối ở nước ngoài (các thương nhân Việt Nam bán hàng hóa qua các chợ, siêu thị tại các khu kinh tế cửa khẩu cho dân cư biên giới hai nước Lào và Campuchia). Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã phát triển hệ thống phân phối sang các nước bằng phương thức hiện diện thương mại (mở chi nhánh, xây dựng trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng bán lẻ).

Về các hình thức phát triển hệ thống phân phối, các doanh nghiệp Việt Nam đang tập trung phát triển mạnh theo hình thức đại lý tiêu thụ. Bên cạnh đó, việc phát triển hệ thống phân phối theo hình thức bán lẻ, bán buôn cũng được các doanh nghiệp Việt Nam tập trung phát triển trên tuyến biên giới với Lào và Campuchia.

Các doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển khá tốt phương thức phân phối hàng hóa sang các quốc gia thông qua các siêu thị lớn của các tập đoàn đa quốc gia đang đầu tư tại Việt Nam. Tận dụng được kênh phân phối thông qua các doanh nghiệp gốc Việt ở các nước có cộng đồng Việt kiều sinh sống lớn như Mỹ, Đức, Cộng hòa Séc... Đồng thời, một số doanh nghiệp Việt Nam có quy mô lớn cũng đã bước đầu phát triển hệ thống phân phối sang các nước bằng phương thức thương mại (mở chi nhánh, xây dựng trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng bán lẻ) tại thị trường nước sở tại.

- Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang mở rộng hoạt động phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang nhiều nước: Tại các nước châu Á: Lào, Campuchia, Myanmar và một số quốc gia châu Á khác là địa điểm nhận đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam khá lớn, trong đó có lĩnh vực hạ tầng phân phối.

Trong số các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU): Giai đoạn đầu các doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang các nước thông qua các doanh nghiệp phân phối đang đầu tư tại Việt Nam như Pháp, Đức và sau đó là đẩy mạnh phát triển hệ thống phân phối sang một số thị trường khác như Cộng hòa Séc, Thụy Điển, Italia… để khai thác tiềm năng của thị trường này. Nhiều doanh nghiệp đang bước đầu tìm kiếm cơ hội phát triển hệ thống phân phối thông qua các hội chợ và triển lãm thương mại ở châu Âu như Hội chợ Quốc tế Công nghiệp thực phẩm Anuga 2019 tại Cộng hòa liên bang Đức, Hội chợ công nghiệp thực phẩm (SIAL Paris), Triển lãm Quốc tế chuyên ngành Thủy hải sản tại Bỉ, Hội chợ Thương mại Quốc tế MAP-EXPO tại Hà Lan…

1.2. Những hạn chế và nguyên nhân

(i) Hạn chế

Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng việc phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam sang các nước từ phương diện Nhà nước còn những hạn chế cơ bản, như:

- Các doanh nghiệp Việt Nam phát triển hệ thống phân phối sang các nước chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất và với số lượng không nhiều. Việc thiếu vắng các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ phân phối, nhất là các doanh nghiệp lớn trong phát triển hệ thống phân phối ra nước ngoài đã hạn chế khả năng huy động nguồn hàng có lợi thế sản xuất trong nước cả về quy mô và cơ cấu hàng hóa. Đồng thời, số lượng doanh nghiệp tham gia phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang các nước còn quá thấp so với khoảng trên 400 nghìn doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay.

- Danh mục hàng hóa trong hệ thống phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam sang các nước còn khiêm tốn. Thực tế cho thấy, danh mục hàng hóa Việt Nam được phân phối tại các nước còn hạn hẹp. Ví dụ, tại thị trường Pháp mới chỉ có khoảng 25 mặt hàng của Việt Nam. Đồng thời, chủng loại hàng hóa cũng chủ yếu tập trung vào một số mặt hàng thực phẩm công nghệ, đồ điện gia dụng. Trong khi nhiều mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế sản xuất và xuất khẩu lớn như may mặc, giầy dép, các mặt hàng nông sản chế biến,… chưa được đưa vào trong hệ thống phân phối hàng hóa của doanh nghiệp sang các nước.

- Các doanh nghiệp Việt Nam mới tập trung phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang các nước dưới hình thức bán buôn hoặc xuất khẩu qua các nhà phân phối bán lẻ lớn, hình thức đầu tư hệ thống bán lẻ, nhượng quyền thương mại cũng chưa được thực hiện. Trong các hình thức phát triển hệ thống phân phối hàng hóa ra nước ngoài, việc phát triển hệ thống bán lẻ sẽ có lợi thế trong việc tăng khai thác nguồn hàng trong nước cả về quy mô và cơ cấu hàng hóa, đồng thời có thể thu nhận được thông tin trực tiếp từ khách hàng để điều chỉnh hoạt động phân phối, cơ cấu, giá cả hàng hóa... Bên cạnh đó, hoạt động nhượng quyền thương mại có tác dụng quảng bá thương hiệu, tiếp cận nhanh thị trường nước ngoài. Do đó, đây là một trong những hạn chế, đòi hỏi Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam khắc phục trong giai đoạn tới.

Đối với các quốc gia có chung biên giới như Lào, Campuchia, hình thức buôn bán chủ yếu thông qua đường tiểu ngạch, khiến lượng hàng Việt Nam đến tay người tiêu dùng nước ngoài còn nhỏ lẻ. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa quan tâm thực sự tới việc thiết lập kênh phân phối của mình tại thị trường nước ngoài mà chỉ chủ yếu là bán hàng cho các thương nhân Lào, Campuchia để họ tự phân phối tại thị trường. Điều này khiến cho việc phân phối hàng hóa không có sự chủ động và khó điều chỉnh trong những thời điểm gặp khó khăn.

Trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, tiềm lực vật chất còn yếu, nguồn nhân lực dồi dào nhưng kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ thống phân công lao động gặp nhiều bất cập ở thị trường nước ngoài.

Thách thức về hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết, vẫn còn tồn tại chênh lệch đáng kể về cơ sở hạ tầng, bao gồm các tuyến đường thứ cấp kém chất lượng, thiếu kết nối đường sắt, thiếu cảng biển và cơ sở hạ tầng cảng hàng không, thiếu cơ sở vật chất hậu cần, thiếu năng lượng ở một số nước làm gián đoạn quá trình sản xuất cũng như vận chuyển

hàng hóa.

- Kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với số lượng chủng loại mặt hàng cũng như tiềm năng sản xuất của Việt Nam. Danh mục hàng hóa trong hệ thống phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam sang các nước còn khiêm tốn. Trong đó, mặt hàng xuất khẩu qua các hệ thống phân phối nước ngoài chiếm chủ yếu vẫn là hàng may mặc, thủy sản, thực phẩm chế biến và một số mặt hàng trái cây, rau củ tươi,... Bên cạnh đó, đa số mới chỉ là “Made in Vietnam” mà còn thiếu những nhãn hàng chính thức của Việt Nam.

- Các doanh nghiệp Việt Nam phát triển hệ thống phân phối sang các nước chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất và với số lượng không nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam mới tập trung phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang các nước dưới hình thức bán buôn hoặc xuất khẩu qua các nhà phân phối bán lẻ lớn, hình thức đầu tư hệ thống bán lẻ, nhượng quyền thương mại cũng chưa được thực hiện.

- Tình trạng cho vay đầu tư ra nước ngoài gia tăng. Tại một số địa bàn và lĩnh vực xuất hiện rủi ro về mặt pháp lý, có nguy cơ dẫn đến các vụ kiện, tranh chấp quốc tế. Một số dự án đầu tư chậm tiến độ, đầu tư không hiệu quả, nhất là dự án đầu tư của nhà nước, tiến độ xử lý các dự án này còn chậm do có quy mô lớn, liên quan đến nhiều vấn đề phức tạp,... Số dự án vẫn còn ít, vốn đầu tư thực hiện thấp và các dự án triển khai khá chậm; vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các dự án Việt Nam không đều qua các năm; chất lượng hoạt động của các vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam cũng có những hạn chế...

Lĩnh vực dịch vụ phân phối còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam. Năm 2020 tỷ trọng này tăng nhẹ, đạt 2,81%. Quy mô vốn đầu tư bình quân dự án nhỏ so với nhiều ngành dịch vụ khác. Quy mô vốn đăng ký đầu tư bình quân của các dự án trong lĩnh vực dịch vụ phân phối năm 2020 đạt 1,48 triệu USD/dự án. So với quy mô vốn đăng ký bình quân chung của các dự án đầu tư ra nước ngoài, vốn đăng ký bình quân của dự án trong lĩnh vực dịch vụ phân phối đã giảm mạnh. Đến năm 2020, tỷ lệ này tăng nhẹ nhưng vẫn thấp, tương đương 9,68%.

- Hệ thống phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam trên tuyến biên giới với Lào và Campuchia tập trung vào ngành bán lẻ chủ yếu là mua bán nhỏ và phục vụ nhu cầu của cư dân biên giới. Các siêu thị, trung tâm thương mại tại các cửa hàng miễn thuế của các khu kinh tế cửa khẩu Việt Nam hiện nay hoạt động không hiệu quả. Đến năm 2019 mới khánh thành được 01 chợ biên giới kiểu mẫu do Chính phủ Việt Nam đầu tư tại Campuchia.

Dịch vụ phân phối của Việt Nam ở Lào, Campuchia, Myanmar khá đơn điệu, chủ yếu dựa vào mạng lưới chợ; mức độ bao phủ của hệ thống phân phối hàng Việt Nam vẫn thấp hơn so với hàng Thái Lan, Trung Quốc; các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú trọng nhiều vào đầu tư phát triển hệ thống phân phối theo phương thức hiện diện thương mại trên thị trường nước bạn…

(ii) Nguyên nhân

- Mặc dù năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đã được cải thiện nhanh trong giai đoạn 2016 - 2020, nhưng vẫn còn ở mức thấp trên thế giới, năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn thấp hơn so với các nước. Đây là một trong những nguyên nhân chi phối hầu hết những hạn chế trong phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước EU.

- Chính sách định hướng cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đang trong quá trình hoàn thiện và còn thiếu cụ thể cho từng loại hình, từng nhóm hàng xuất khẩu cần ưu tiên mà Việt Nam có lợi thế sản xuất. Đồng thời, Quyết định số 1513/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 03/9/2015 phê duyệt Đề án thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài giai đoạn đến năm 2020 cũng chưa đề cập đến định hướng phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài. Việc chậm trễ trong xây dựng và thực thi định hướng đó đã góp phần hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc phát triển hệ thống phân phối sang các nước.

- Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa. Nhu cầu và khả năng phát triển hệ thống phân phối của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước còn thấp. Những thương hiệu của các doanh nghiệp và hàng hóa có tên tuổi trên thị trường nước ngoài chưa nhiều.

Sự vượt trội của nhiều quốc gia so với Việt Nam về năng lực cạnh tranh quốc gia, về trình độ phát triển của các doanh nghiệp, về sức cạnh tranh của hàng hóa,… cùng với sự tương đồng về những yếu tố thuận lợi sẽ tạo sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang các nước.

- Ở trong nước, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chưa hoàn thiện, thủ tục hành chính về đầu tư ra nước ngoài còn nhiều bất cập, Nhà nước chưa có nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài... Đó là những khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và phát triển hệ thống phân phối hàng hóa sang các nước nói riêng.

- Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam có tiềm lực tài chính, công nghệ và năng lực quản lý còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp Việt Nam thường kinh doanh đơn lẻ, thiếu sự liên kết, hợp tác, chia sẻ thông tin với nhau, thậm chí còn cạnh tranh không lành mạnh. Đó là những khó khăn nội tại của bản thân các doanh nghiệp trong việc phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam sang nước ngoài.

- Tiêu chuẩn của nhà phân phối rất chặt chẽ và cao. Hầu hết các hệ thống phân phối lớn như Walmart, Central Group, Aeon đều có tiêu chí lấy khách hàng làm trọng tâm. Do vậy, dựa vào phản ứng của người tiêu dùng, các nhà phân phối đặt ra những tiêu chuẩn tuyển chọn hàng hóa khá khắt khe. Bên cạnh đó, đa số các nhà bán lẻ có tiêu chí về giá dẫn đến giá đặt hàng quá rẻ lại đòi hỏi tiêu chuẩn rất khắt khe, dẫn đến nhà sản xuất Việt Nam thu được lợi nhuận rất thấp, đặc biệt là Walmart. Đưa được hàng hóa của Việt Nam vào siêu thị của các tập đoàn phân phối lớn tại các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các thị trường có tiêu chuẩn cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc thực sự là một cuộc cạnh tranh khắc nghiệt giữa các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp các quốc gia khác, nhất là từ Trung Quốc do năng lực cạnh tranh và sự tương đồng của hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc. Bên cạnh đó, các kênh phân phối hiện đại ở những thị trường tiêu chuẩn cao thường đòi hỏi những nhà cung cấp cho họ phải đạt được các tiêu chuẩn để họ có thể phục vụ cho hệ thống siêu thị và người tiêu dùng.

- Chất lượng, chủng loại hàng hóa của Việt Nam chưa đủ/chưa phù hợp với yêu cầu và thị hiếu của thị trường nhập khẩu, chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe của nhà phân phối và thị trường nhập khẩu, cũng như không đủ số lượng để đáp ứng những đơn hàng lớn từ nhà phân phối.

- Nhận thức và quan điểm của nhà sản xuất và doanh nghiệp Việt Nam đối với việc xuất khẩu hàng hóa của mình theo hình thức này còn thấp, dẫn đến chưa biết/hoặc chưa muốn tham gia xuất khẩu theo hình thức này.

Bên cạnh đó, cũng tồn tại tình trạng, doanh nghiệp hiểu và mong muốn đưa hàng Việt Nam ra các nước thông qua hệ thống phân phối hiện đại của nước ngoài là một trong những giải pháp để tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa nông sản, thực phẩm của doanh nghiệp nhưng vẫn chưa thể tham gia vào hình thức này. Nguyên nhân là do năng lực sản xuất của doanh nghiệp quá thấp hoặc sản phẩm sản xuất còn chưa phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của thị trường.

Chính sách định hướng cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện và còn thiếu cụ thể cho từng loại hình, từng nhóm hàng xuất khẩu cần ưu tiên mà Việt Nam có lợi thế sản xuất. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chưa hoàn thiện, thủ tục hành chính về đầu tư ra nước ngoài còn nhiều bất cập, Nhà nước chưa có nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.

Những khác biệt về văn hóa, pháp luật, môi trường giữa Việt Nam và các quốc gia tiếp nhận đầu tư này đã dẫn đến các tranh chấp ngoài mong muốn, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án, quyền và lợi ích của người dân địa phương cũng như hình ảnh của nhà đầu tư Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp khi đầu tư cửa hàng bán và phân phối sản phẩm của Việt Nam ở nước ngoài nên cân nhắc về sự phù hợp với văn hóa và thói quen người tiêu dùng bản địa.

2. Một số vấn đề đặt ra đối với phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam ở nước ngoài trong giai đoạn tới

2.1. Về đầu tư ra nước ngoài để phát triển hạ tầng phân phối hàng hóa

Một là, những khác biệt về văn hóa, pháp luật, môi trường giữa Việt Nam và các quốc gia tiếp nhận đầu tư này đã dẫn đến các tranh chấp ngoài mong muốn, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án, quyền và lợi ích của người dân địa phương cũng như hình ảnh của nhà đầu tư Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài thường mang theo tư duy, cách nghĩ của người Việt Nam. Chẳng hạn như: Về đất đai, nếu doanh nghiệp đầu tư ở Việt Nam sẽ được Nhà nước hỗ trợ thu hồi đất, nhưng sang đầu tư ở Campuchia, chế độ sở hữu đất đai sẽ khác, dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài gặp không ít khó khăn.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp khi đầu tư cửa hàng bán và phân phối sản phẩm của Việt Nam ở nước ngoài nên cân nhắc nhất là sự phù hợp với văn hóa và thói quen người tiêu dùng bản địa.

Hai là, năng lực của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu. Theo các chuyên gia kinh tế, nguyên nhân chủ quan dẫn đến kết quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt như kỳ vọng là do khả năng dự báo thị trường, năng lực quản lý, năng lực tài chính vẫn còn nhiều hạn chế.

Ba là, nhiều doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài kinh doanh nhưng hoạt động còn mang tính tự phát, do đó rất dễ xảy ra tranh chấp. Trong khi, về mặt quản lý nhà nước, hiện chưa có cơ quan đủ thẩm quyền, điều kiện và năng lực triển khai quản lý, theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động tại nước ngoài.

Bốn là, hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chưa cao.

2.2. Về xuất khẩu hàng hóa qua hệ thống phân phối của nhà bán lẻ nước ngoài

Để hàng Việt Nam đứng vững trên thị trường, đủ sức cạnh tranh thì các nhà mua hàng cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó chuẩn hóa từ khâu sản xuất, phân phối, tiêu thụ và trọng tâm là nâng cao chất lượng sản phẩm.

Tại các cuộc đối thoại, kết nối giữa doanh nghiệp Việt Nam với các nhà phân phối nước ngoài, đại diện các nhà bán lẻ nước ngoài khẳng định, Việt Nam có nhiều sản phẩm tiêu dùng được người nước ngoài ưa thích. Tuy nhiên, tại các thị trường “khó tính” như Nhật, EU, Mỹ… có yêu cầu rất khắt khe với các quy định về hàng rào kỹ thuật, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, chất cấm... Do đó, việc sản xuất theo hướng an toàn là yêu cầu bắt buộc với các doanh nghiệp.

2.3. Những chính sách, giải pháp của Nhà nước trong việc tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu hàng hóa qua hệ thống phân phối hiện đại có hiệu quả thực thi chưa cao.

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp Việt Nam thiếu thông tin, thiếu kết nối với nhà phân phối, nhận thức doanh nghiệp Việt Nam đối với việc xuất khẩu hàng hóa của mình theo hình thức này còn thấp, dẫn đến chưa nhiệt tình, chủ động tìm hiểu và tham gia xuất khẩu theo hình thức này. Bên cạnh đó, những hỗ trợ từ phía Nhà nước có thể chưa đủ hấp dẫn doanh nghiệp và nhà sản xuất Việt Nam lựa chọn hình thức xuất khẩu này.

2.4. Vốn là yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia xuất khẩu hàng qua các chuỗi siêu thị nước ngoài phải đối mặt

Hầu hết doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ với số vốn thấp. Trong khi đó, nếu xuất khẩu trực tiếp vào hệ thống siêu thị nước ngoài thì việc thanh toán tiền lại chậm, thông thường từ 01 đến hơn 03 tháng. Điều này gây khó cho doanh nghiệp trong việc đảm bảo nguồn vốn quay vòng. Bên cạnh đó, chưa tính đến các chi phí chiết khấu, quảng cáo xúc tiến giới thiệu sản phẩm....

Nhu cầu và khả năng phát triển hệ thống phân phối của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước còn thấp. Những thương hiệu của các doanh nghiệp và hàng hóa có tên tuổi trên thị trường nước ngoài chưa nhiều. Trong khi, tiêu chuẩn của nhà phân phối rất cao và chặt chẽ. Chất lượng, chủng loại hàng hóa của Việt Nam chưa đủ/chưa phù hợp với yêu cầu và thị hiếu của thị trường nhập khẩu, chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe của nhà phân phối và thị trường nhập khẩu, cũng như không đủ số lượng để đáp ứng những đơn hàng lớn từ nhà phân phối. Vốn cũng là yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia xuất khẩu hàng qua các chuỗi siêu thị nước ngoài phải đối mặt.

Ngoài ra, nhận thức và quan điểm của nhà sản xuất và doanh nghiệp Việt Nam đối với việc xuất khẩu hàng hóa của mình theo hình thức này còn thấp, dẫn đến chưa biết/hoặc chưa muốn tham gia xuất khẩu theo hình thức này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ Công Thương (2010), Điều tra về mạng lưới phân phối hàng hóa thuộc “Chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước năm 2009”, Hà Nội.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), Đề án nghiên cứu “Chiến lược phát triển tổng thể khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020”.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT ngày 17/10/2018 hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài.

4. Nguyễn Thanh Bình (2012), Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”.

5. Chính phủ (2015), Quyết định số 1513/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối ở nước ngoài giai đoạn đến năm 2020.

6. Chính phủ (2019), Quyết định số 1797/QĐ-TTg ngày 12/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án huy động người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm và phát triển các kênh phân phối hàng Việt Nam ở nước ngoài.

7. Chính phủ (2015), Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 của Chính phủ hướng dẫn về đầu tư ra nước ngoài.

8. Phạm Huy Giang (2011), Phát triển hệ thống phân phối hiện đại dạng chuỗi siêu thị bán lẻ trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sĩ, Đại học Thương mại.

9. Lê Thị Thu Hương (2019), Nghiên cứu, đề xuất giải pháp phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU, Đề tài cấp Bộ.

10. Phạm Hồng Tú (2016), Nghiên cứu, đề xuất giải pháp phát triển hệ thống phân phối của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước thuộc Tiểu vùng sông Mekong, Viện Nghiên cứu Thương mại.

11. Đinh Văn Thành (2006), Đánh giá thực trạng và định hướng tổ chức các kênh phân phối một số mặt hàng chủ yếu ở nước ta, Đề tài cấp Bộ, Viện Nghiên cứu thương mại.

12. Đinh Văn Thành (2012), Tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thông qua công ty xuyên quốc gia (TNC) - Bài học cho Việt Nam, Đề tài cấp Bộ.

13. Lê Ngọc Trung (2018), “Giải pháp phát triển hệ thống phân phối hàng nông sản vùng Đông Nam Bộ hiện nay”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương.

14. Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng đầu năm 2019.

15. Viện Nghiên cứu Thương mại (2002), “Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Đề tài khoa học cấp Bộ.

16. Viện Nghiên cứu Thương mại (2006), “Đánh giá thực trạng và định hướng tổ chức các kênh phân phối cho một số mặt hàng chủ yếu của nước ta”, Đề tài khoa học cấp Bộ.

ThS. Lê Thị Thu Hương

Tổng Cục Quản lý thị trường - Bộ Công Thương


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng