Phát triển chuỗi cung ứng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hậu Covid-19

Nghiên cứu - Trao đổi
Đại dịch Covid-19 đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu, làm gián đoạn hoạt động của chuỗi cung ứng thương mại quốc tế đối với cung - cầu hàng hóa. Ở Việt Nam, Covid-19 ảnh hưởng...
aa

Đại dịch Covid-19 đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu, làm gián đoạn hoạt động của chuỗi cung ứng thương mại quốc tế đối với cung - cầu hàng hóa. Ở Việt Nam, Covid-19 ảnh hưởng đến đầu vào nguyên liệu và linh kiện từ các nhà cung cấp nước ngoài, đặc biệt từ các nước châu Á. Phục hồi và phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị mới trong và sau đại dịch Covid-19 là nhu cầu cấp thiết đối với Việt Nam.



Dịch Covid -19 gây ảnh hưởng đến nguồn cung ứng đầu vào phục vụ sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ của ngành Điện tử Việt Nam. (Ảnh: Minh họa. Nguồn: Internet)


1. Ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 tới chuỗi cung ứng thương mại quốc tế

Chuỗi cung ứng (Supply Chain) là hệ thống bao gồm các tổ chức, hoạt động và nguồn lực liên quan đến việc vận chuyển sản phẩm (dịch vụ) từ tay người cung cấp (nhà sản xuất), đến khách hàng (người tiêu dùng). Chuỗi cung ứng cũng bao gồm các hoạt động vận chuyển từ kinh doanh (Business) đến khách hàng (Customer). Nghĩa là, chuỗi cung ứng không chỉ bao gồm nhà sản xuất, nhà cung cấp mà còn liên quan đến nhà vận chuyển, nhà kho, nhà bán lẻ và khách hàng1.

Thương mại quốc tế (International Commerce) là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nước thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Dưới tác động ngày càng tăng của xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa, hoạt động thương mại quốc tế ngày càng đa dạng và tăng trưởng nhanh, trung bình khoảng 6%/năm trong giai đoạn gần 5 thập kỷ (1960 - 2007)2, gấp 2 lần tốc độ tăng GDP nhờ giảm chi phí thương mại thông qua thay đổi chính sách (thuế quan) và thay đổi công nghệ (vận tải và thông tin). Giảm chi phí thương mại giúp mở rộng các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC- Global Value Chain). Tuy nhiên, thương mại quốc tế sụt giảm mạnh từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và chỉ đạt dưới 3% (là năm thứ 5 liên tiếp thương mại toàn cầu giảm), thấp hơn mức 3,1% GDP năm 20163. Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 khiến sản xuất thâm dụng nguyên liệu nhập khẩu trong xuất khẩu đã giảm rõ rệt, làm thay đổi cấu trúc chuỗi giá trị toàn cầu và đe dọa sự đứt gãy chuỗi cung ứng. Cùng với các đòn trừng phạt lẫn nhau trong thương chiến Mỹ - Trung, sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ thương mại, đại dịch Covid-19 chính là chất xúc tác làm đứt gãy chuỗi cung ứng nhanh hơn.

Đại dịch Covid-19 gây ra sự gián đoạn lớn trong chuỗi cung ứng thương mại quốc tế do các chuỗi cung ứng từ nguyên liệu dược phẩm, thực phẩm, điện tử và thiết bị y tế của thế giới đều phụ thuộc vào Trung Quốc. Năm 2018, Trung Quốc chiếm tới 28% sản lượng hàng hóa chế tạo toàn cầu4. Hầu hết các chuỗi cung ứng quan trọng đều tập trung ở Trung Quốc. Đại dịch Covid-19 làm nổi bật vai trò quan trọng của Trung Quốc với sự thống trị rộng khắp đến mọi nền kinh tế khác, từ ngành sản xuất thiết bị kiểm tra thân nhiệt đến nguồn cung ứng thực phẩm. Các chuỗi cung ứng trong khu vực bị ảnh hưởng và các công ty không thể tiếp cận với nguyên liệu và sản phẩm. Mức tập trung cao khiến cho chuỗi cung ứng bị đứt gãy nhanh hơn, dẫn đến sụt giảm thương mại quốc tế trầm trọng.

Dịch Covid-19 làm bộc lộ rõ những rủi ro khi cung ứng các sản phẩm, thiết bị thiết yếu bị gián đoạn, không kịp thời do mạng lưới chuỗi cung ứng trải rộng toàn cầu, lưu thông hàng hóa, dịch vụ và lao động toàn cầu không còn như trước khiến cho mọi hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư không thể thông suốt và hiệu quả, nhiều chuỗi cung ứng quá phụ thuộc vào các trung tâm sản xuất và các thị trường lớn của Trung Quốc. Mạng sản xuất toàn cầu bị đứt gãy trên quy mô chưa từng thấy. Mức tập trung cao khiến cho chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy nghiêm trọng, dẫn đến suy giảm thương mại quốc tế. Dự báo của Nhóm Ngân hàng Thế giới (WBG) cho thấy, GDP toàn cầu giảm 5,2% năm 2020 (mức suy thoái sâu nhất trong 8 thập niên (1940 - 2020). Trong số 14 đợt suy thoái toàn cầu trong 150 năm qua, đợt suy thoái do Covid-19 được đánh giá đứng thứ 4 về độ sâu. Thương mại hàng hóa giảm từ 13% - 32% năm 2020. Thu nhập bình quân đầu người dự kiến sẽ giảm ở 93% (năm 2021) ở các quốc gia (tỷ lệ lớn nhất trong hơn thế kỷ qua)5.

Dịch Covid-19 gây tổn hại sâu rộng đến nền kinh tế Trung Quốc, đồng thời gây ra hiệu ứng cánh bướm đến nền kinh tế toàn cầu trong bối cảnh các chuỗi cung ứng toàn cầu đan xen phức tạp và đều phụ thuộc ít nhiều vào các nhà máy đặt tại Trung Quốc. Toàn bộ hoạt động sản xuất tại Trung Quốc ngưng trệ trong tháng 2/2020 khiến cho chuỗi cung ứng khu vực và quốc tế bị gián đoạn. Tác động của chuỗi cung ứng trong ngành chế tạo sẽ lan ra khắp thế giới bởi vai trò vượt trội của Trung Quốc là cơ sở sản xuất. Việc đóng cửa hàng nghìn nhà máy ở Trung Quốc đồng nghĩa với việc hoạt động sản xuất bị gián đoạn, không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở các nước sử dụng linh kiện do Trung Quốc sản xuất. Thậm chí, ngay cả ở các công ty không có liên hệ trực tiếp với Trung Quốc cũng bị tác động.

Các ngành sản xuất ở Đông Nam Á như sản xuất điện thoại di động, dệt may và hàng tiêu dùng đã hình thành sự phân công lao động hợp lý với Trung Quốc. Khi doanh nghiệp Trung Quốc dừng sản xuất, dẫn đến gián đoạn chuỗi cung ứng và ảnh hưởng đến năng lực sản xuất gia công, chế tạo của các nước ASEAN, buộc ASEAN phải ngừng hoặc giảm bớt sản xuất. Hơn 60% nguyên vật liệu của ngành dệt may và da giày Campuchia được nhập từ Trung Quốc; 4 nhà máy dệt Campuchia sẽ phải ngưng hoạt động nếu như nguồn cung nguyên liệu từ Trung Quốc bị gián đoạn.

Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Hàn Quốc, với hơn 25% hàng hóa xuất khẩu của Hàn Quốc có điểm đến là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Tập đoàn công nghệ Samsung (Hàn Quốc) phải đóng cửa một nhà máy sản xuất smartphone. Hyundai dừng một số dây chuyển sản xuất xe tại Hàn Quốc. Trong khi, kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc lớn vào Samsung và Hyundai (với tổng doanh số bán hàng chiếm tới 1/5 GDP của Hàn Quốc). Do đó, sự gián đoạn sản xuất của Samsung và Hyundai chắc chắn sẽ thổi luồng gió mạnh vào kinh tế Hàn Quốc. Các ngành điện tử, ô tô, máy móc, dệt may của Hàn Quốc chịu ảnh hưởng lớn nhất do sự hỗn loạn nguồn cung từ Trung Quốc. Vì thiếu linh kiện sản xuất tại Trung Quốc nên Tập đoàn Hyundai Motor Hàn Quốc đã phải tạm dừng sản xuất hoàn toàn6. Theo đánh giá của Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản và của chỉ số chứng khoán Nikkei có uy tín của Nhật Bản, cứ 10 tỷ USD giá trị sản lượng công nghiệp của Trung Quốc suy giảm do gián đoạn sản xuất thì hàng hóa linh kiện xuất khẩu của Trung Quốc sang Hàn Quốc sẽ giảm gần 300 triệu USD.

Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, chiếm 22% tổng kim ngạch thương mại, cao hơn mức 15% với Mỹ (năm 2019) nên mức độ phụ thuộc của Nhật Bản vào Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu không hề nhỏ. Ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến nhiều nhà máy tại Trung Quốc phải đóng cửa, các biện pháp chống dịch của chính quyền Trung Quốc như phong tỏa, hạn chế đi lại... làm tê liệt hàng loạt chuỗi cung ứng trên toàn thế giới, trong đó có Nhật Bản. Chỉ riêng trong tháng 2/2020, lượng hàng hóa, nguyên vật liệu Nhật Bản nhập khẩu từ Trung Quốc sụt giảm gần một nửa, đẩy các nhà sản xuất của Nhật Bản vào tình cảnh lao đao do “khát” nguyên liệu và cấu phần cần thiết để duy trì sản xuất. Covid-19 đã ảnh hưởng tới các chuỗi cung ứng của 54% doanh nghiệp Nhật Bản. Hãng sản xuất ô tô Nissan đã phải tuyên bố ngưng hoạt động sản xuất tại một nhà máy chính tại Nhật Bản (2/2020). Tình trạng khan hiếm nguyên liệu đã khiến các doanh nghiệp Nhật Bản bắt buộc phải tìm kiếm các biện pháp nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào Trung Quốc.

Năm 2021, số ca mắc mới Covid-19 tại Đông Nam Á (Malaysia, Indonesia…) gia tăng càng tác động tiêu cực đến chuỗi cung ứng của các công ty Nhật Bản, kéo theo nguy cơ gián đoạn sản xuất trong khu vực ngày càng rõ rệt. Malaysia - nơi tập trung nhiều công ty của Nhật Bản, ban hành lệnh phong tỏa (tháng 6/2021) khiến các nhà máy thuộc Toyota và Honda phải đóng cửa. Công ty Mitsui Mining & Smelting Co. của Nhật Bản chuyên sản xuất vật liệu cho điện thoại thông minh cũng phải thông báo ngừng sản xuất (tháng 7/2021).

2. Tác động tới chuỗi cung ứng thương mại Việt Nam

Mặc dù là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới (độ mở của Việt Nam cao gấp 1,5 lần Thái Lan và gấp 5 lần Trung Quốc)7, song mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực còn hạn chế và thấp hơn nhiều so với các nước cùng khối ASEAN. Đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam chỉ tạo ra được 20,4 tỷ USD (năm 2018) thông qua việc tham gia vào chuỗi cung ứng, xếp thứ 53 trong số 174 quốc gia8, chưa bằng 1/4 của quốc gia tiếp theo trong khối ASEAN là Philippines với 84,8 tỷ USD (xếp thứ 34). Mức độ tham gia vào các công đoạn tinh vi phức tạp của Việt Nam thấp. Theo Báo cáo phát triển thế giới (WDR) năm 2020, mức độ tham gia của Việt Nam hiện đang ở cấp độ “chế biến chế tạo mức hạn chế” và cần cải thiện sự tham gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu để nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế9. Tuy nhiên, Covid-19 tác động không nhỏ tới chuỗi cung ứng thương mại Việt Nam trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, gián đoạn chuỗi cung ứng khu vực dẫn đến sản xuất kinh doanh ở Việt Nam bị trì trệ. Hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Việt Nam đều phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu, vật tư, phụ tùng nhập khẩu từ Trung Quốc nên khi dịch Covid-19 bùng nổ gây tê liệt nền kinh tế Trung Quốc đã trực tiếp làm suy yếu hoạt động sản xuất kinh doanh của Việt Nam. Trong đó, ngành công nghiệp điện - điện tử (máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, điện thoại và linh kiện) là ngành có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Dịch Covid-19 sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn cung ứng đầu vào phục vụ sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ của ngành điện tử Việt Nam, đặc biệt là ảnh hưởng đến nguồn linh phụ kiện đầu vào cho sản xuất trong nước, dẫn đến tăng chi phí sản xuất, lợi nhuận giảm. Các ngành sản xuất khác có nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc như da giày, dệt may... cũng gặp khó khăn “kép”, cả về nguồn cung đầu vào sản xuất và sức mua của thị trường sụt giảm. Doanh nghiệp mới thành lập cũng giảm ở hầu hết các lĩnh vực, mức giảm mạnh nhất trong lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi, giải trí (giảm 23%), lĩnh vực bán buôn, bán lẻ (giảm 11,8%), dịch vụ vận tải kho bãi (giảm 37,9%).

Trung Quốc dừng thông quan tại các cửa khẩu với Việt Nam và tăng cường quản lý, siết chặt các cửa khẩu nhằm ngăn chặn sự lan rộng của dịch khiến hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc, đặc biệt là hàng nông - lâm - thủy sản gặp nhiều khó khăn. Chín ngành chịu tác động tiêu cực lớn nhất từ dịch Covid-19, bao gồm: May mặc, bán lẻ, thủy sản, bia, dầu khí, chứng khoán, cảng biển và vận chuyển, dịch vụ sân bay, hàng không. Đặc biệt, những ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phụ thuộc nguồn nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc chịu tác động mạnh nhất do thiếu nguyên liệu đầu vào, gián đoạn chuỗi cung ứng do nguồn thay thế hạn chế. Do nhiều ngành sản xuất của Việt Nam phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc, nên dù nhiều nhà máy Trung Quốc mở cửa hoạt động trở lại nhưng việc kiểm dịch hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc cũng chặt chẽ hơn. Điều này khiến nhiều ngành của Việt Nam vẫn tiếp tục bị thiếu hụt nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, khi sức mua của nền kinh tế Trung Quốc giảm, đóng cửa tạm đường biên do dịch bệnh, kinh tế Việt Nam chịu tổn thương lớn hơn so với các nền kinh tế khác có quy mô tương đương trong khu vực.

Thứ hai, đứt gãy chuỗi cung ứng thương mại dẫn đến hoạt động sản xuất của ngành chế biến, chế tạo giảm. Do dịch bệnh, các thị trường cung cấp nguyên liệu, sản xuất bị gián đoạn, tác động tới các chuỗi cung ứng trong ngành chế tạo lan ra khắp khu vực bởi vai trò vượt trội của Trung Quốc là cơ sở sản xuất. Việc đóng cửa hàng nghìn nhà máy ở Trung Quốc đồng nghĩa với việc hoạt động sản xuất sẽ bị gián đoạn ở các nước sử dụng linh kiện do Trung Quốc sản xuất. Thậm chí, ngay cả ở các công ty không liên hệ trực tiếp với Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng.

Doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất khi dịch Covid-19 tác động trực tiếp thị trường xuất nhập khẩu, thị trường tiêu thụ nguyên vật liệu. Nhiều đối tác ở các nước ngừng giao dịch, thậm chí xin hủy đơn hàng đã ký trước. Bối cảnh đó buộc các doanh nghiệp phải chủ động sắp xếp lại tổ chức, dây chuyền sản xuất và tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Ngành công nghiệp chế tạo chế biến cho xuất khẩu phải đối mặt với tình trạng các đơn hàng nước ngoài tiếp tục giảm.

Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc đảm bảo hỗ trợ duy trì, ổn định các hoạt động sản xuất kinh doanh, không để đứt gãy chuỗi cung ứng, nhưng do dịch bệnh diễn biến phức tạp nên số lượng doanh nghiệp chế biến, chế tạo rút lui khỏi thị trường tiếp tục tăng. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, số doanh nghiệp chế biến, chế tạo tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 4.225 doanh nghiệp, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2020; doanh nghiệp chế biến, chế tạo hoàn tất thủ tục giải thể là 1.138 doanh nghiệp, tăng 29,8%10.

Đứt gãy chuỗi cung ứng kéo theo những hạn chế của chuỗi cung ứng đường dài. Những chuỗi cung ứng đường dài này có thể làm chậm khả năng phản ứng nhanh của doanh nghiệp trước khủng hoảng và khiến doanh nghiệp đối mặt với tình cảnh hàng tồn kho chất chồng. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tăng 24,3% (tháng 6/2021) so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2020 tăng 26,7%)11. Trong đó, một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao như: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; dệt; sản xuất chế biến thực phẩm; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất.

Thứ ba, đứt gãy nguồn “cung - cầu” lao động việc làm, thất nghiệp tăng. Không chỉ có nguy cơ đứt chuỗi cung ứng nguyên vật liệu, dịch Covid-19 còn khiến nguy cơ đứt gãy chuỗi nguồn lao động trở nên hiện hữu. Ảnh hưởng của dịch Covid-19 tới lao động và việc làm rất lớn. Khoảng trên 30 triệu người lao động Việt Nam, tương đương khoảng một nửa lực lượng lao động, bị ảnh hưởng khi giãn cách cao điểm trong tháng 4/2020. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tỷ lệ thất nghiệp thành thị tăng 33% trong quý II/2020, thu nhập bình quân của người lao động tính theo mức trung bình giảm 5%12. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp giảm 1,4% (tháng 6/2021) so với tháng 5/2021 và giảm 1% so với cùng thời điểm năm 2020. Trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước lần lượt giảm 0,1% và giảm 2,3%. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,1% và giảm 1,4%13.

Sự bùng phát nhanh hơn, mạnh hơn, khó kiểm soát hơn của dịch Covid-19 lần thứ 4 (tháng 2/2021) làm cho tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm quý II/2021 tăng mạnh, trong đó số người thất nghiệp gần 1,2 triệu, người thiếu việc làm khoảng 1,1 triệu, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi của khu vực thành thị tăng 2,8%, cao hơn so với khu vực nông thôn tăng khoảng 2,49%14.

Lao động đang làm việc giảm 65 nghìn người (quý II/2021). Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở độ tuổi lao động đều tăng, tương ứng 0,2 điểm phần trăm và 0,4 điểm phần trăm15. Lao động thất nghiệp, thiếu việc làm tăng, doanh nghiệp lâm vào tình cảnh khó khăn do thiếu lao động. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có tới 26,7% doanh nghiệp không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu (quý II/2021). Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng, trong khi doanh nghiệp không tìm đủ số lao động. Điều đó cho thấy dấu hiệu của sự đứt gãy về “cung - cầu” lao động, gây ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ, dẫn tới sự đứt gãy về nguồn cung sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ra thị trường, gây hệ lụy tới ổn định kinh tế - xã hội.

Dịch Covid-19 làm gia tăng bất bình đẳng vì tác động đến người lao động theo nhiều mức độ khác nhau. Lao động ở các ngành dịch vụ bị giảm thu nhập hơn nhiều so với lao động nông nghiệp và các ngành khác. Nếu dịch bệnh tiếp tục kéo dài tại Mỹ và châu Âu, gần như 100% các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng, và có thể sẽ tác động đến hơn 3/4 số lao động trong các ngành dệt may và da giày, với hơn 3 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp trong các ngành dịch vụ liên quan.

3. Giải pháp phát triển chuỗi cung ứng thương mại Việt Nam

Tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu đem lại cơ hội phát triển cho nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, giúp cân bằng cơ cấu thương mại. Tuy nhiên, do cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung ngày càng quyết liệt, đại dịch Covid-19 gây gián đoạn chuỗi cung ứng và lưu chuyển thương mại quốc tế đã làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ dẫn tới xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu nhằm phân tán và giảm thiểu rủi ro đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Để phục hồi và phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong và sau đại dịch Covid-19, Việt Nam tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Một là, tổ chức lại các chuỗi cung ứng cho sản xuất công nghiệp, tạo sự bền vững, linh hoạt để phát triển các chuỗi cung ứng mới. Từng bước thúc đẩy cơ cấu lại hoạt động sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ nhằm tự chủ nguồn nguyên phụ liệu, vật liệu trong nước phục vụ cho phát triển bền vững công nghiệp. Ngành công nghiệp hỗ trợ được định hướng là một trong những ngành ưu tiên phát triển và được ưu đãi đầu tư. Số lượng và chất lượng các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang ngày càng được cải thiện. Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ phần nào đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới. Một số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tích cực sử dụng các công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, trở thành nhà cung cấp cho các công ty đa quốc gia. Số lượng nhà cung ứng cấp 1 của Samsung tăng từ 35 doanh nghiệp (năm 2018) lên 42 doanh nghiệp. Số lượng nhà cung ứng cấp 2 cũng tăng từ 157 doanh nghiệp (năm 2018) lên 170 doanh nghiệp và thêm 3 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng của Toyota (tháng 4/2021)16.

Trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát, các hoạt động giao thương trực tiếp gặp nhiều khó khăn, Bộ Công Thương chính thức khai trương hệ thống cơ sở dữ liệu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp hỗ trợ, là dấu mốc quan trọng nhằm giải quyết nhu cầu hình thành mạng lưới kết nối doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B - Business-to-Business) trong và ngoài nước, giúp các doanh nghiệp, nhà đầu tư tìm kiếm thông tin nhanh chóng, chính xác, đáp ứng nhu cầu kết nối đầu tư, tăng cường cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để dần đưa sản phẩm tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

Hai là, cơ cấu lại mặt hàng xuất nhập khẩu, thị trường xuất nhập khẩu, đa dạng hóa thị trường ngoài nước, tránh phụ thuộc vào một số thị trường trong tình hình mới. Chú trọng phát triển thị trường xuất khẩu, nhập khẩu theo các nhóm ngành hàng Việt Nam có lợi thế, đặc biệt là các thị trường mà Việt Nam đã tham gia ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA). Tập trung nghiên cứu thị hiếu, dung lượng thị trường, khả năng sản xuất trong nước đối với mặt hàng Việt Nam có thế mạnh và được ưu đãi nhiều về thuế. Triển khai hỗ trợ phát triển những ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế tham gia sâu trong các chuỗi giá trị.

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực từ tháng 8/2020, đã tạo cơ hội cho Việt Nam thúc đẩy thương mại, đầu tư, đặc biệt hình thành chuỗi cung ứng mới. Với tư cách là một trong những nước đang phát triển đầu tiên trong khu vực có FTA với EU, Việt Nam đang ở vị trí thuận lợi để trở thành nơi tiếp nhận chuỗi cung ứng mới, xây dựng chuỗi cung ứng bền vững kết nối EU với Việt Nam. Bởi EU là một phần của các chuỗi giá trị toàn cầu trong nhiều lĩnh vực tạo ra sản phẩm như thiết kế, sản xuất, marketing, phân phối, tái chế. EU cũng là động lực cho chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu ở Việt Nam.

Năm 2020, Việt Nam ký kết thành công Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với sự tham gia của 10 nền kinh tế ASEAN và 5 quốc gia mà ASEAN đã có các FTA. Cùng với EVFTA, RCEP được kỳ vọng sẽ là cơ hội thuận lợi cho tất cả các nước tham gia cũng như doanh nghiệp của các nước trong Hiệp định cơ cấu, định vị lại các chuỗi cung ứng và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu sau khi chấm dứt đại dịch Covid-19. Việt Nam với tư cách là một nền kinh tế mở sẽ khai thác tốt hơn nữa vị thế mới để xây dựng vị trí trong bản đồ của các chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ba là, phát triển các chuỗi cung ứng hàng hóa trong nước. Tiếp tục phát triển các chuỗi cung ứng hàng nông sản thực phẩm thiết yếu trên thị trường nội địa, đẩy mạnh liên kết chuỗi, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất với các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ và đẩy mạnh liên kết trong toàn chuỗi cung ứng, gắn với các quy định về chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Hình thành các chuỗi liên kết thuần Việt Nam đáp ứng quy định, tiêu chuẩn theo đúng thông lệ quốc tế. Tăng cường phát huy các sáng kiến kết nối cung - cầu trên thị trường trong nước. Triển khai các hoạt động kết nối cung - cầu hàng hóa, kích cầu tiêu dùng nội địa nhằm tạo thuận lợi tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước tại các kênh phân phối truyền thống và hiện đại.

Vận động các tập đoàn công nghệ thu hút đầu tư vào những lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, công nghiệp hỗ trợ. Hoàn thiện các tiêu chuẩn, xuất xứ hàng hóa để ngăn ngừa dòng đầu tư chất lượng thấp, đầu tư lẩn tránh thuế quan. Chủ động triển khai các biện pháp để tận dụng cơ hội thị trường, giảm thiểu khó khăn, phục hồi chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị bị đứt gãy, phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị mới để xác lập vị thế mới của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Bốn là, tận dụng để mở rộng tìm kiếm nguồn cung vật liệu và đầu ra cho nông phẩm. Để khắc phục thiếu hụt nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, cần hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm nguồn cung thay thế thông qua tăng cường liên kết, tận dụng tối đa các thị trường mới mở từ các FTA. Với 15 FTA cho phép hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng thuế suất ưu đãi khi tiếp cận thị trường ở trên 50 quốc gia, bao gồm hầu hết các đối tác thương mại lớn nhất, chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới, tạo ra cơ hội lớn để phát triển chuỗi cung ứng mới.

Nhằm mở rộng tìm kiếm nguồn cung vật liệu mới, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chuyển hướng nhập khẩu nguyên vật liệu từ Hàn Quốc, Ấn Độ, Bangladesh và Brazil để tránh phụ thuộc vào nhập khẩu nhiều từ Trung Quốc. Ấn Độ cũng đang tăng khối lượng nhập khẩu trái cây Việt Nam (nhãn, vải, mãng cầu, thanh long). EVFTA được thông qua là cơ hội để Việt Nam mở rộng kinh tế, tăng trao đổi mậu dịch với EU, tránh phụ thuộc vào Trung Quốc.

Tóm lại, với vai trò chất xúc tác cho những thay đổi đang diễn ra trong chuỗi cung ứng, dịch Covid-19 giúp thúc đẩy chuyển mạng lưới cung ứng và sản xuất tới quốc gia gần hơn trong khu vực, số hóa sâu rộng hơn, có mạng lưới và phương thức sản xuất bền vững hơn. Việt Nam đang triển khai các chương trình hỗ trợ giúp doanh nghiệp tiếp tục hoạt động. Những phản ứng chính sách của Việt Nam nhằm mục đích ngăn ngừa việc mất đi các mối quan hệ quan trọng trong chuỗi cung ứng và những kỹ năng và bí quyết mà doanh nghiệp có được thông qua tham gia vào chuỗi cung ứng.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, tối ưu hóa sản xuất và chi phí, xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu nhằm phân tán và giảm thiểu rủi ro đang hiện diện mạnh mẽ, nhiều cơ hội và thách thức đan xen đặt ra cho Việt Nam. Dịch Covid-19 buộc các doanh nghiệp và chuỗi cung ứng phải phát triển. Các doanh nghiệp cần đổi mới hơn nữa và chuẩn bị trước khối lượng, nhu cầu và xu hướng mới để chuẩn bị hoạt động phát triển lâu dài. Việt Nam cần tận dụng cơ hội nằm trong nhóm khu vực để tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đảm bảo chất lượng cơ sở hạ tầng (cảng và đường sá) để đảm bảo đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, cũng như đảm bảo chuỗi cung ứng xanh và bền vững.

1 Chuỗi cung ứng là gì? (uci.vn)

2 Nam Hải (2017), Một số xu hướng của thương mại toàn cầu thời gian gần đây - Trang Ngoại giao Kinh tế (mofa.gov.vn).

3 Theo Báo cáo thương mại thế giới năm 2015 và triển vọng năm 2016 của WTO.

4 https://thtruongquyen.hcm.edu.vn/kinh-te/cuoc-dich-chuyen-chuoi-cung-ung-toan-cau-da-bat-dau-cm97512-560170.aspx

5 Cơ hội và thách thức của chuỗi cung ứng thủy sản Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 (tapchitaichinh.vn).

6 Tác động đến chuỗi sản xuất toàn cầu của Covid-19. Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 20/2/2020.

7 Theo đánh giá của WB 2020.

8 Thúy Hải (2020), Dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu: Việt Nam nắm bắt nhiều cơ hội mới, Báo Sài Gòn Giải Phóng (sggp.org.vn).

9 Theo WB đánh giá, năm 2020 cứ 1% tăng lên trong việc tham gia GVC sẽ làm tăng mức thu nhập bình quân đầu người hơn 1% (nhiều hơn 2 lần so với thương mại truyền thống).

10 Đăng ký doanh nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm và dự báo xu hướng kinh doanh 6 tháng cuối năm 2021 - General Statistics Office of Vietnam (gso.gov.vn).

11 Thúy Hiền (2021), Quý III, gần 78% doanh nghiệp chế biến, chế tạo kỳ vọng sẽ hoạt động ổn định, baotintuc.vn

12 Jacques Moisset (2020), Vietnam needs to promote a new growth engine to avoid the Covid-19 economic trap (worldbank.org)

13 Thúy Hiền (2021), Quý III, gần 78% doanh nghiệp chế biến, chế tạo kỳ vọng sẽ hoạt động ổn định, baotintuc.vn

14 Bảo Ngọc (2021), Dịch Covid-19 khó kiểm soát, hàng triệu người thất nghiệp, thiếu việc làm - Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn).

15 Chiến Thắng (2021), Để “cung - cầu” lao động không bị đứt gãy (qdnd.vn).

16 Trần T. A. (2021), Tập trung phục hồi và phát triển mới chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong và sau đại dịch Covid-19 (oogleusercontent.com).


Tài liệu tham khảo:

1. Jacques Moisset (2020), Vietnam needs to promote a new growth engine to avoid the Covid-19 economic trap (worldbank.org).

2. Pritest Samuel (2020), Vietnam Briefing, Covid-19 and the Effects on Supply Chains in Vietnam (vietnam-briefing.com).

3. Anh. T,T (2021) Tập trung phục hồi và phát triển mới chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong và sau đại dịch Covid-19. chi tiết tin (googleusercontent.com).

4. Bảo Ngọc (2021), Dịch Covid-19 khó kiểm soát, hàng triệu người thất nghiệp, thiếu việc làm - Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn).

5. Chiến Thắng (2021), Để “cung-cầu” lao động không bị đứt gãy (qdnd.vn).

6. Nam Hải (2017), Một số xu hướng của thương mại toàn cầu thời gian gần đây - Trang Ngoại giao Kinh tế (mofa.gov.vn).

7. Tác động đến chuỗi sản xuất toàn cầu của Covid-19. Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 20/2/2020.

8. Thuý Hải (2020), Dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu: Việt Nam nắm bắt nhiều cơ hội mới, Báo Sài Gòn Giải Phóng (sggp.org.vn).


PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình ( Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng