Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Chính sách
Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
aa

Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu khai mạc. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Thưa các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Thưa các đồng chí đại biểu dự Hội nghị,

Hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương tiến hành Hội nghị lần thứ 12 trong không khí cả nước đang tràn đầy phấn khởi, thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện trọng đại của dân tộc và quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; các mục tiêu của Đại hội lần thứ XIII, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Đây là Hội nghị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, được triệu tập sớm hơn gần 3 tháng so với kế hoạch đề ra, thể hiện tinh thần chủ động, khẩn trương, trách nhiệm cao của toàn Đảng trong việc chuẩn bị một cách toàn diện, kỹ lưỡng các nội dung trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại biểu tham dự Hội nghị và gửi lời cảm ơn chân thành tới nỗ lực không mệt mỏi của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, của toàn thể đảng viên trong thực hiện các nhiệm vụ của Đảng, đặc biệt là những công việc từ sau Hội nghị Trung ương 11 đến nay; cảm ơn toàn Đảng đã đoàn kết, đồng lòng cùng Nhân dân cả nước hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp vào ngày 01/07/2025 với không gian phát triển mới; đưa dân tộc bước vào một chương mới trong lịch sử hình thành và phát triển của đất nước.

Hội nghị lần này diễn ra trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chuyển trạng thái từ “Vừa chạy vừa xếp hàng” sang “Hàng thẳng, lối thông, đồng lòng cùng tiến” vươn tới tương lai. Từ Trung ương đến 34 tỉnh, thành phố và 3.321 xã, phường, đặc khu, cả hệ thống chính trị và hệ thống hành chính đều đang vận hành theo hướng đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng quản trị, điều hành khoa học, hạn chế trung gian, xóa bỏ trùng lắp chức năng, gần dân hơn, sát dân hơn, phục vụ Nhân dân tốt hơn. Đây là bước đột phá về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, thể hiện quyết tâm cao của Đảng trong việc thiết lập một thiết chế quản trị hiện đại, liêm chính, tinh gọn và hướng tới người dân.

Điều đặc biệt đáng trân trọng là các chủ trương lớn, những quyết sách chiến lược mang tính lịch sử nêu trên đã và đang nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, sự hưởng ứng tích cực và niềm tin sâu sắc của các tầng lớp Nhân dân. Đồng bào cả nước bày tỏ kỳ vọng lớn lao vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, tin tưởng vào tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là nền tảng chính trị - xã hội vững chắc, quý báu để chúng ta tiếp tục tiến bước trong kỷ nguyên mới.

Thưa các đồng chí,

Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi tài liệu tới các đồng chí nghiên cứu trước. Tại Hội nghị lần này, các đồng chí tập trung thảo luận cho ý kiến vào ba nhóm nội dung lớn, đó là Nhóm nội dung về công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng; Nhóm nội dung tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho mục tiêu tiếp tục cải cách, đổi mới đất nước trong thời gian tới; Nhóm nội dung về công tác cán bộ.

Đối với nhóm nội dung thứ nhất, các Tiểu ban văn kiện Đại hội XIV đã tiếp thu chọn lọc, nghiêm túc ý kiến tham gia góp ý của các đồng chí Trung ương tại Hội nghị Trung ương 11 cũng như tại dự thảo các Văn kiện; ý kiến đóng góp của Đảng viên và quần chúng Nhân dân, của một số Đại hội đảng bộ cấp xã, phường được tổ chức trong thời gian vừa qua.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các tiểu ban Văn kiện gấp rút điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các Văn kiện (Báo cáo Chính trị, Báo cáo Kinh tế - xã hội, Báo cáo xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng, Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới) để trình Trung ương cho ý kiến. Qua nhiều lần bổ sung, hoàn thiện, nội dung Văn kiện cơ bản đã đảm bảo các yêu cầu đề ra như tính cách mạng, tính khoa học, tính chiến lược, tính thực tiễn, tính đồng bộ, tính khả thi, tính định hướng… Tuy nhiên để nội dung Dự thảo Văn kiện lần này không chỉ là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, mà còn là “ngọn đuốc soi đường” cho công cuộc phát triển đất nước trong giai đoạn mới, vì vậy, từng câu chữ, từng nội dung trong các dự thảo Văn kiện phải thực sự cô đọng, súc tích, chiến lược mà cụ thể, vi mô vì vĩ mô, phản ánh đúng thực tiễn, dự báo đúng xu thế và định hướng được tương lai.

Đối với nhóm nội dung tạo cơ sở chính trị cho việc tiếp tục cải cách, đổi mới trong thời gian tới, Trung ương đã chỉ đạo các cơ quan thuộc Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về thể chế, tạo hành lang pháp lý cho phát triển đất nước. Trung ương quyết tâm tháo gỡ triệt để các rào cản pháp lý vì vấn đề này được coi là “Điểm nghẽn của nghẽn” (Trong Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV vừa qua, Quốc hội đã thông qua 34 Luật, ban hành 34 Nghị quyết, trong đó có 14 Nghị quyết quy phạm pháp luật. Quốc hội dự kiến xem xét thông qua 23 dự luật và xem xét thông qua 12 Nghị quyết cho kỳ họp thứ 10. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Công điện hướng dẫn nhằm tháo gỡ khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống Nhân dân). Tại Hội nghị 12 này, Trung ương cũng sẽ xem xét, cho ý kiến về một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung tại các Nghị quyết Trung ương trong lĩnh vực đất đai (Nghị quyết 18 ngày 16/6/2022); xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (Nghị quyết 27 ngày 09/11/2022); giáo dục và đào tạo (Nghị quyết 29 ngày 04/11/2013; Nghị quyết 19 ngày 25/10/2017); cho chủ trương định hướng điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

Đối với nhóm nội dung công tác cán bộ, xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng, Trung ương sẽ xem xét bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị khóa XIV; phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XIV; xem xét công tác cán bộ thuộc thẩm quyền. Nhóm nội dung này đã được Ban Tổ chức Trung ương chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản, lớp lang, tuân thủ Điều lệ và các quy định của Đảng, của pháp luật hiện hành.

Đối với nội dung báo cáo trình Đại hội XIV về tổng kết công tác xây dựng và thi hành điều lệ Đảng, Văn kiện đã đánh giá khá rõ nét nguyên nhân thành công trong quá trình thực hiện 10 nhiệm vụ về xây dựng Đảng, 3 nhiệm vụ trọng tâm và 3 giải pháp đột phá mà Đại hội XIII đã đề ra. Báo cáo Tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng (2011 - 2025), rút ra những bài học sâu sắc về công tác này. Đồng thời văn kiện cũng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIV.

Thưa các đồng chí,

Vì tính chất đặc biệt quan trọng trong các nội dung trình ra Hội nghị, tôi đề nghị Trung ương cần tập trung trí tuệ, thảo luận kỹ các vấn đề cốt lõi sau:

Thứ nhất: Đánh giá khách quan, toàn diện với góc nhìn của người tham gia hoạch định chính sách và chỉ đạo thực thi chính sách về những thành tựu và hạn chế trong nhiệm kỳ khóa XIII, từ đó xác định rõ nguyên nhân, rút ra bài học sâu sắc, nhất là về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng.

Thứ hai: Đóng góp ý kiến tổng thể, cụ thể, khoa học về nội dung tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua, nhất là những bài học kinh nghiệm để làm cơ sở cho quá trình đổi mới tiếp theo trong giai đoạn mới.

Thứ ba: Xác định cho được mục tiêu tổng quát và các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ tới: Phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng nền hành chính phục vụ, quản trị công hiện đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kỷ cương, tiến bộ.

Thứ tư: Đưa ra những định hướng lớn về bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh Nhân dân vững chắc trong bối cảnh mới; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và thực chất hơn vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế quốc tế và nền văn minh nhân loại.

Thứ năm: Xác định rõ phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XIV. Đây là nội dung đặc biệt hệ trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thành bại của toàn bộ nhiệm kỳ tới. Nhân sự phải bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư duy đổi mới, đạo đức trong sáng, hành động quyết liệt vì tập thể, vì Nhân dân, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Phải tuân thủ lời Bác dạy “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.

Thứ sáu: Góp ý cho Dự thảo báo cáo Tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng cần tập trung vào phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIV, đặc biệt chú ý đến mô hình tổ chức, năng lực cán bộ theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ mới, nhấn mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng bên cạnh kiến nghị sửa đổi đồng bộ hệ thống các quy định về công tác cán bộ, quy hoạch, phân cấp quản lý; tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá cán bộ; hệ thống chức danh, chức vụ; đào tạo lý luận chính trị… xây dựng Điều lệ không chỉ là khung pháp lý mà còn là “linh hồn” của kỷ luật Đảng, nền tảng giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng.

Thứ bảy: Đóng góp ý kiến tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia theo mô hình phát triển mới. Với sự chuyển đổi về không gian hành chính kinh tế - xã hội, hệ thống luật pháp cũng phải hoàn thiện theo, vừa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, vừa mở đường cho cái mới, bảo vệ cái đúng, xóa bỏ rào cản, tháo gỡ nút thắt thể chế. Pháp luật phải tạo thuận lợi để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vì Nhân dân.

Thứ tám: Cho ý kiến về việc tích hợp nội dung 3 báo cáo: Báo cáo Chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội, Báo cáo Tổng kết xây dựng Đảng thành “Báo cáo Chính trị” mới trình Đại hội XIV.

Thứ chín: Tiếp tục đóng góp ý kiến cho Trung ương về công tác điều hành, vận hành bộ máy chính quyền hai cấp đang được thực hiện. Cần phản ánh thực tế từng địa phương, cơ sở có khó khăn gì, cần Trung ương hỗ trợ gì ngoài nỗ lực của địa phương, của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động để thực hiện cho được mục tiêu ổn định, phát triển, nâng cao đời sống mọi mặt của người dân.

Thưa các đồng chí,

Để hoàn thành khối lượng công việc rất lớn trong thời gian ngắn, yêu cầu đặt ra là từng Ủy viên Trung ương cần phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, thảo luận dân chủ, thẳng thắn, khách quan và cầu thị. Phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Không để bất kỳ lợi ích cục bộ, cảm tính cá nhân hay nể nang, né tránh làm ảnh hưởng tới chất lượng quyết sách. Mỗi ý kiến đóng góp tại Hội nghị lần này không chỉ có ý nghĩa với nội dung văn kiện, mà còn có vai trò trong việc hình thành đường lối chiến lược của Đảng ta từ nay đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, 2050.

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, với truyền thống đoàn kết, kỷ cương, kỷ luật của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; với trí tuệ, ý chí đổi mới và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Hội nghị Trung ương 12 sẽ thành công tốt đẹp, tạo đà vững chắc cho công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng, đáp ứng kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị Trung ương 12, khóa XIII.

Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí.

TCNH

Tin bài khác

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô