Ngân hàng trung ương và rủi ro an ninh mạng

Quốc tế
Theo khảo sát của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), ước tính của các ngân hàng trung ương (NHTW) về tổn thất tiềm năng từ các cuộc tấn công mạng vào hệ thống tài chính có thể lên tới 5% GDP. Sự cần thiết phải đối phó với những rủi ro ngày càng tăng của các mối đe dọa an ninh mạng đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể ngân sách của các NHTW dành cho công nghệ thông tin (CNTT).
aa

Theo khảo sát của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), ước tính của các ngân hàng trung ương (NHTW) về tổn thất tiềm năng từ các cuộc tấn công mạng vào hệ thống tài chính có thể lên tới 5% GDP. Sự cần thiết phải đối phó với những rủi ro ngày càng tăng của các mối đe dọa an ninh mạng đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể ngân sách của các NHTW dành cho công nghệ thông tin (CNTT).

Năm 2021, Tập đoàn nghiên cứu thị trường Ipsos khảo sát khoảng 3.500 chuyên gia của Tập đoàn bảo hiểm đa quốc gia AXA, những người làm việc tại 60 quốc gia trên thế giới. Kết quả cho thấy, có tới 61% trong số người được khảo sát đưa rủi ro liên quan đến an ninh mạng vào top 3 rủi ro hàng đầu sẽ ảnh hưởng đến xã hội trong 5-10 năm tới. Năm 2018, tỉ lệ này là 54%. Trong “xếp hạng tổng thể”, rủi ro an ninh mạng vượt xa đại dịch Covid-19 và các bệnh truyền nhiễm, chỉ “chịu thua” trước những rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu (AXA Futures Risks Report, 2021). Các rủi ro an ninh mạng tiếp tục gia tăng khi các đợt phong tỏa do đại dịch Covid-19 đã đẩy nhanh quá trình số hóa các hoạt động. Các tổ chức tài chính và cơ sở hạ tầng thị trường tài chính nằm trong một khu vực rủi ro đặc biệt, các chuyên gia của BIS lưu ý khi đánh giá rủi ro an ninh mạng của NHTW; mặt khác, sự phát triển của thị trường tiền mã hóa còn làm tăng khả năng xảy ra tội phạm mạng trong khu vực tài chính theo nghĩa rộng, bao gồm các tổ chức tài chính truyền thống.


Một cuộc khảo sát do BIS thực hiện cho thấy, các NHTW rất lưu ý tới sự gia tăng rủi ro an ninh mạng. Theo đó, các NHTW đang xây dựng các chiến lược để phòng, chống các cuộc tấn công mạng và tăng đáng kể ngân sách cho mục đích này. Cuộc khảo sát với sự tham gia của 21 chuyên gia từ Global Cyber ​​Resilience Group, một nhóm gồm các giám đốc phụ trách an toàn thông tin từ 9 đại diện của NHTW các nước phát triển và 12 đại diện từ NHTW các nước đang phát triển (Sebastian Doerr et al., 2022).

Thuật ngữ "rủi ro an ninh mạng" bao gồm nhiều loại rủi ro liên quan đến sự cố an ninh mạng và hack hệ thống CNTT; đồng thời, bao gồm cả các cuộc tấn công có chủ ý vào cơ sở hạ tầng CNTT và các sự cố không cố ý. Các chuyên gia châu Âu ước tính rằng các cuộc tấn công mạng chiếm 40% các sự cố mạng. BIS nhấn mạnh, có ba loại tấn công mạng: (i) Lừa đảo; (ii) Tấn công chuỗi cung ứng (lây nhiễm phần mềm trước khi phân phối cho người dùng); (iii) Phần mềm độc hại tống tiền, loại sự cố thứ hai đã tăng gấp ba lần chỉ trong năm 2021.

Động cơ của các cuộc tấn công mạng có thể là mong muốn kiếm tiền (tống tiền, gián điệp công nghiệp...), mục tiêu địa chính trị (các cuộc tấn công do nhà nước bảo trợ vào cơ sở hạ tầng quan trọng) hoặc sự bất mãn chung và mong muốn thúc đẩy các ý tưởng mang động cơ chính trị.

Rủi ro của các cuộc tấn công mạng đang gia tăng trong bối cảnh ứng dụng rộng rãi các công nghệ điện toán đám mây, vì điều này dẫn đến việc mở rộng "vành đai bảo mật" ra ngoài mạng công ty - xu hướng này đặc biệt gia tăng do quá trình chuyển đổi ồ ạt sang làm việc từ xa trong bối cảnh đại dịch Covid-19.


Nguồn: Sebastian Doerr et al. (2022). Cyber risk in central banking, BIS Working Papers No 1039

Ở các NHTW, lừa đảo và các hình thức tấn công xã hội khác được coi là hình thức tấn công phổ biến nhất. Ở các nước phát triển, NHTW quan tâm đến những cuộc tấn công vào chuỗi cung ứng hơn ở các nước đang phát triển và tổn thất liên quan đến chúng được cho là nhiều hơn. Đồng thời, theo đại diện của các NHTW, các cuộc tấn công liên quan đến việc sử dụng phần mềm độc hại có tổn thất lớn nhất (Biểu đồ 1). Thậm chí ngoài những tổn thất tài chính trực tiếp từ các cuộc tấn công mạng, các NHTW còn lo ngại về các rủi ro hoạt động và rủi ro danh tiếng liên quan đến các cuộc tấn công mạng, ảnh hưởng đến uy tín của NHTW và các hệ thống thanh toán.

Các NHTW từ các nước phát triển và đang phát triển có quan điểm hơi khác nhau về chủ thể chính của các cuộc tấn công mạng. NHTW ở các nước phát triển đổ lỗi cho tội phạm có tổ chức và các nhóm do nhà nước bảo trợ là thủ phạm chính; còn các nước đang phát triển thì xem tội phạm có tổ chức và các nhà hoạt động xã hội - chính trị (những người hoặc nhóm người thực hiện các hành động xã hội hay chính trị bằng cách đột nhập và phá hoại hệ thống máy tính) là những chủ thể tấn công mạng chủ yếu. Thật thú vị khi chỉ có một NHTW từ các nước đang phát triển cho rằng các chủ thể nội bộ có thể gây ra mối đe dọa, trong khi một phần ba số người được khảo sát từ các NHTW của các nước phát triển nghĩ như vậy (Biểu đồ 1). Các mối đe dọa nội bộ có thể được coi là nhỏ, nhưng không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của chúng.

Tổn thất vì tấn công mạng

Theo một phân tích dựa trên hơn 100.000 sự cố rủi ro an ninh mạng, trong giai đoạn 2002 - 2019, các công ty tổn thất cho mỗi sự cố trung bình là 2,6 triệu USD (Aldasaro I. et al., 2020). Vào năm 2021, một cuộc tấn công mạng vào Colonial Pipeline, hệ thống đường ống lớn nhất của Hoa Kỳ, đã khiến nó phải ngừng hoạt động, gây ra tình trạng thiếu hụt và giá nhiên liệu trong nước tăng vọt, công ty buộc phải trả khoảng 5 triệu USD cho tin tặc; do cuộc tấn công mạng vào mạng lưới các nhà máy của JBS - một trong những công ty chế biến thịt lớn nhất thế giới - đã ngừng hoạt động.

Trong lĩnh vực tài chính, các cuộc tấn công mạng phổ biến hơn sáu lần so với các lĩnh vực khác, nhưng chi phí trung bình lại thấp hơn, ở mức 1,7 triệu USD, điều này dường như là nhờ có sự quản lí và giám sát chặt chẽ hơn. Lĩnh vực tài chính thường xuyên bị ảnh hưởng bởi gian lận, chiếm hơn 60% trong tất cả các sự cố so với 49% theo mẫu khảo sát các công ty thuộc tất cả các lĩnh vực. Đối với các ngân hàng, rủi ro an ninh mạng chỉ chiếm 0,2% trong tổng số tổn thất hoạt động, nhưng tần suất xuất hiện những rủi ro này ngày càng tăng và tỉ lệ thu nhập của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng bởi rủi ro an ninh mạng ước tính vào khoảng 0,2-4,2% (Aldasaro I. et al., 2020).

Các NHTW lưu ý rằng, tổn thất tiềm ẩn từ các cuộc tấn công nghiêm trọng mang tính hệ thống vào cơ sở hạ tầng tài chính có thể rất lớn: Con số tổn thất thông thường được đề cập ở mức 5% GDP hằng năm, nhưng một số NHTW ở các nước đang phát triển đưa ra ước tính trên 10% GDP. Hơn nữa, những thiệt hại từ các cuộc tấn công mạng đã xảy ra đối với lĩnh vực tài chính trong giai đoạn 2020 - 2021 đã tăng lên: Thông thường, mức tăng này được ước tính trong khoảng 20%, nhưng gần 1/3 NHTW ở các nước phát triển tin rằng nó vượt quá 20% (Sebastian Doerr et al., 2022).

Bảo vệ trước mối đe dọa an ninh mạng

Hầu hết các NHTW được khảo sát đang tăng ngân sách CNTT để đối phó với sự gia tăng các mối đe dọa an ninh mạng. Hơn 60% NHTW ở các nước phát triển và khoảng 50% ở các nước đang phát triển đã tăng ngân sách cho cơ sở hạ tầng CNTT lên 5-20% và khoảng 1/4 NHTW ở các nước đang phát triển đã tăng ngân sách hơn 20% (Biểu đồ 2). Danh mục các nhiệm vụ ưu tiên bao gồm tạo và duy trì các giao thức bảo mật, đảm bảo tính liên tục của các quy trình kinh doanh, đào tạo cán bộ và thuê nhân viên mới với các kỹ năng cần thiết. Đồng thời, BIS cũng chỉ ra các khó khăn trong việc tìm đủ số lượng nhân viên có trình độ chuyên môn cao: “Hầu hết các NHTW gặp khó khăn trong việc thuê, giữ chân và liên tục đào tạo lại nguồn nhân lực của họ do nguồn cung lao động hạn chế, chi phí cao và môi trường công nghệ thay đổi nhanh chóng”. Một cuộc khảo sát năm 2020 đối với các chuyên gia an ninh mạng do Enterprise Strategy Group và ISSA thực hiện cho thấy, 70% số người được hỏi tin rằng các tổ chức của họ đang thiếu hụt kĩ năng an ninh mạng toàn cầu, với gần một nửa cho biết tình trạng thiếu hụt chỉ trở nên tồi tệ hơn trong những năm gần đây và chỉ 7% ước tính rằng tình hình đã được cải thiện (Jon Oltsik et al., 2020).

Nguồn: Sebastian Doerr et al. (2022). Cyber risk in central banking, BIS Working Papers No 1039

Ngân sách bổ sung cho an ninh mạng sẽ phải được tăng lên trong trường hợp đưa vào lưu hành các loại tiền kĩ thuật số của NHTW (CBDC), vì điều này sẽ tăng tính phức tạp và đòi hỏi hoàn thiện cơ sở hạ tầng CNTT hiện có (Biểu đồ 3).



Nguồn: Sebastian Doerr et al. (2022). Cyber risk in central banking, BIS Working Papers No 1039

Tất cả các NHTW được khảo sát đều xây dựng kế hoạch hành động trong trường hợp bị tấn công. Ngoài ra, khoảng 80% xây dựng chiến lược trong trường hợp hệ thống tài chính bị tấn công. Trong số các NHTW được khảo sát, tất cả đều tiến hành các đợt diễn tập nội bộ để mô phỏng các cuộc tấn công mạng ít nhất mỗi năm một lần, bao gồm các kịch bản tấn công vào hệ thống của chính NHTW, cũng như sự cố ngừng hoạt động của hệ thống thanh toán hoặc cơ sở hạ tầng thị trường tài chính quan trọng khác.

Tại hầu hết các nước, đặc biệt là nước đang phát triển, NHTW đã ban hành khung quản lý rủi ro an ninh mạng hoặc đang có kế hoạch giới thiệu một khuôn khổ như vậy, nhưng việc kiểm tra sức chịu đựng thường xuyên đối với các công ty tài chính vẫn chưa trở thành một thông lệ phổ biến. Cho đến nay, chỉ có 1/3 NHTW ở các nước phát triển và 15% ở các nước đang phát triển tiến hành các kiểm tra này (Sebastian Doerr et al., 2022). Kết quả khảo sát cho thấy, hơn một nửa số NHTW tin rằng các khoản đầu tư vào an ninh mạng trong lĩnh vực tài chính là không đủ trong những năm gần đây. Ngoài ra, đại diện của các NHTW đồng tình rằng, thị trường bảo hiểm vẫn chưa thể đánh giá và bù đắp rủi ro an ninh mạng một cách hiệu quả.

Hầu hết các NHTW ở các nước đang phát triển đều có hệ thống thu thập thông tin về các cuộc tấn công mạng nhằm vào các tổ chức tài chính, nhưng ở các nước phát triển, chỉ một nửa số người được hỏi báo cáo việc này. Một thực trạng tương tự như vậy khi đề cập đến việc liệu các tổ chức được giám sát có bắt buộc phải báo cáo các tổn thất liên quan đến các cuộc tấn công mạng cho người giám sát hay không. Ở hầu hết các nước đang phát triển, các định chế chịu sự giám sát của NHTW được yêu cầu báo cáo các khoản tổn thất liên quan đến rủi ro an ninh mạng, trong khi chỉ có 2/3 NHTW ở các nước phát triển đưa ra yêu cầu như vậy. Những câu trả lời này phù hợp với sự thay đổi chung trong thực tiễn an ninh mạng của các NHTW, đó là, sự dịch chuyển từ trọng tâm dựa trên tuân thủ sang quản lí rủi ro và khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi không gian mạng (Cyber resilience), trong bối cảnh này, có thể được định nghĩa là khả năng của một NHTW/cơ quan quản lí tiền tệ có thể tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình bằng cách đánh giá và thích ứng với các mối đe dọa an ninh mạng và những thay đổi có liên quan khác trong môi trường cũng như bằng cách chống đỡ, ngăn chặn và phục hồi nhanh chóng sau các sự cố mạng không vượt quá giới hạn hoạt động của tổ chức. Qua một số khảo sát tại các NHTW, những người tiến hành khảo sát nhận thấy, hiện nay, có ba xu hướng đang nổi lên, đó là:

Thứ nhất, phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và tập trung vào các ưu tiên được áp dụng nhiều hơn. Các cách tiếp cận trước đây tập trung vào việc tuân thủ toàn diện các tiêu chuẩn kiểm toán hoặc liên tục bổ sung các công cụ công nghệ mới. Phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro neo các bộ điều khiển chủ chốt vào các kịch bản tấn công thực tế. Độ bền thường được kiểm tra bằng cách sử dụng các cuộc tấn công mô phỏng nhiều lớp, nhiều tầng với quy mô toàn diện.

Thứ hai, quản lí an ninh mạng ngày càng được tích hợp vào các khuôn khổ quản lí rủi ro doanh nghiệp. Các lợi ích bao gồm thể hiện tốt hơn khẩu vị rủi ro, ưu tiên giữa các loại rủi ro và quan trọng là được thừa nhận tốt hơn về trách nhiệm giải trình ở tuyến đầu trong quản lí mức độ rủi ro an ninh mạng của các quy trình kinh doanh.

Thứ ba, an ninh mạng chuyển sang khả năng phục hồi không gian mạng. Khái niệm khẩu vị rủi ro chấp nhận rằng rủi ro bằng không không tồn tại. Do đó, trọng tâm đang chuyển sang khả năng tổ chức đánh giá và phòng, chống các cuộc tấn công, cũng như tiếp tục duy trì các hoạt động quan trọng của tổ chức trong các giai đoạn ứng phó và phục hồi. Do đó, ưu tiên dành cho các quy trình phục hồi và ứng phó như quản lí sự cố hay quản lí khủng hoảng.

Tài liệu tham khảo:

1. Aldasaro I. et al. (2020). Cyber risk in the financial sector. SUERF Policy Note, Issue No 206.
2. Ipsos (2021). AXA Futures Risks Report 2021.
3. Jon Oltsik et al. (2020). The Life and Times of Cubersecurity Professionals 2020. ESG Research Report.
4. Sebastian Doerr et al. (2022). Cyber risk in central banking. BIS Working Papers No 1039.


Nhật Trung
Trường Đại học Hòa Bình



https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Xem thêm
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc