Một số kinh nghiệm về số hóa nền kinh tế Liên bang Nga

Công nghệ & ngân hàng số
Bài viết đề cập các nội dung chủ yếu của việc số hóa nền kinh tế Nga, những vấn đề tồn đọng và triển vọng cho việc thực hiện số hóa tại Liên bang Nga, đồng thời nhấn mạnh quan điểm số hóa nhằm nâng c...
aa

Bài viết đề cập các nội dung chủ yếu của việc số hóa nền kinh tế Nga, những vấn đề tồn đọng và triển vọng cho việc thực hiện số hóa tại Liên bang Nga, đồng thời nhấn mạnh quan điểm số hóa nhằm nâng cao chất lượng quản lý hành chính công.

Hiện nay, sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào được xác định bởi mức độ số hóa nền kinh tế của quốc gia đó. Trong quá trình hình thành nền kinh tế số sẽ diễn ra sự chuyển đổi các hình thức quan hệ kinh tế truyền thống sang các hình thức quan hệ kinh tế số. Tuy nhiên, các nhà kinh tế lý thuyết vẫn chưa đưa ra một quan điểm thống nhất về ảnh hưởng của mức độ số hóa đối với giá trị GDP do các hiệu ứng số nhân và liên ngành có thể có.

Với quá trình phát triển và khả năng ứng dụng công nghệ số, tiềm năng của nền kinh tế số để cải thiện phúc lợi của quốc gia là hiển nhiên. Cách tiếp cận này giúp định hình các ưu tiên chính sách công và bao gồm các giải pháp cụ thể và cẩn trọng hơn, có ý nghĩa rất quan trọng để nâng cao chất lượng quản lí nhà nước, một trong những mục tiêu chiến lược ưu tiên của Liên bang Nga.

Theo các chuyên gia có uy tín, nền kinh tế số là một môi trường thể chế kinh tế, nơi công nghệ số hướng đến việc đáp ứng nhu cầu của nhà nước, tăng hiệu quả kinh doanh và phúc lợi công cộng [10].

Trong bảng xếp hạng quốc tế “Chỉ số phát triển kinh tế số của các quốc gia” tính đến năm 2017, Nga đứng thứ 39 (Bảng 1)[11].

Kinh nghiệm quốc tế về số hóa cho thấy rằng nhà nước đang tích cực tham gia các quá trình chuyển đổi, nhờ đó, đạt đượhiệu quả kinh tế và xã hội. Hiện tại, ở Mỹ, thị phần của nền kinh tế số chiếm 10,9%; ở Trung Quốc là 10%; ở EU là 8,3%[2;9].

Kinh nghiệm nước ngoài về việc hình thành một nền kinh tế số, ví dụ, ở Đức, tác giả của Đề án “Công nghiệp 4.0”, cho thấy rằng nhà nước không đóng vai trò trung tâm trong cơ cấu tài trợ các dự án kỹ thuật số, mà là xây dựng các nguyên tắc vận hành, phát triển giáo dục cơ bản, khuyến khích nghiên cứu...[8;9].

Ở Hàn Quốc và Nhật Bản, số hóa được thực hiện trên cơ sở các tổ chức như LG, Samsung, Sony, SoftBank, Toshiba, Toyota, ở đó, có thể chỉ ra các dự án thương mại điện tử, tạo ra các hệ sinh thái (Rakuten) và các ứng dụng liên lạc miễn phí trên Internet (Line, Kakao). Ở Mỹ, quy mô nền kinh tế số khá cao và tỉ lệ đóng góp vào tăng trưởng GDP từ đầu tư vào số hóa, trong đó có đầu tư của cả nhà nước ngày càng lớn. Trung Quốc, mặc dù là một nước đang phát triển, nhưng đứng ở vị trí thứ hai sau Hoa Kỳ, cũng xác định và thực hiện các giải pháp số đầy hứa hẹn, phát triển các dự án riêng như Alibaba và Huawei. Bán lẻ trực tuyến là mô hình kinh doanh phổ biến của người dân Trung Quốc, trong đó, các khả năng của các hệ sinh thái trực tuyến và dịch vụ ngân hàng số đang được sử dụng tích cực[9].

Ở Nga[8], sự đóng góp của nền kinh tế số vào tăng trưởng GDP hiện đang trở lại xu hướng tăng trưởng sau khi giảm nhẹ vào năm 2015 (Hình 1). Đồng thời, theo các dự báo, hiệu quả kinh tế từ số hóa nền kinh tế Nga có thể tăng GDP vào năm 2025 khoảng 4,1 đến 8,9 nghìn tỷ Rúp, chiếm từ 19 đến 34% tăng trưởng GDP[9].

Theo các chuyên gia, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế số tại Liên bang Nga vẫn bị tụt lại phía sau các nước hàng đầu. Đặc biệt, theo nhóm chuyên gia Digital McKinsey[9], số hóa là nguồn gốc tăng trưởng kinh tế dài hạn thông qua: tối ưu hóa hoạt động sản xuất và logistics; nâng cao hiệu quả của thị trường lao động; tăng hiệu suất thiết bị; nâng cao hiệu quả R & D và phát triển sản phẩm mới; giảm tiêu thụ tài nguyên và thiệt hại sản xuất.

Số hóa có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân nhờ tạo cơ hội việc làm mới, tăng sức mua của người tiêu dùng, tăng sự tham gia của công dân vào việc quản lý các quá trình xã hội quan trọng, tăng sự tiện nghi khi sống trong các thành phố, mở rộng tiếp cận các lợi ích xã hội, sự tiện lợi của các dịch vụ kỹ thuật số và dịch vụ công kĩ thuật số, đảm bảo an toàn xã hội và an ninh kinh tế của quốc gia[8].

Sứ mệnh phát triển nền kinh tế số Nga là cải thiện chất lượng cuộc sống, đảm bảo năng lực cạnh tranh quốc gia và an ninh quốc gia. Mục tiêu số hóa trong viễn cảnh 15 - 20 năm là tham gia vào nhóm các nền kinh tế hàng đầu thế giới thông qua chuyển đổi số các ngành công nghiệp truyền thống và phát triển một ngành công nghiệp số tự lực và cạnh tranh[6].


Ở Nga, theo Chương trình "Kinh tế số của Liên bang Nga", trước mắt, tạo các điều kiện cần thiết cho sự phát triển nền kinh tế số với quy mô lớn. Chương trình thiết lập các mục tiêu sau:

- Hoàn thiện thể chế và nâng cấp cơ sở hạ tầng để phát triển các doanh nghiệp công nghệ cao.

- Thiết lập hệ sinh thái của nền kinh tế số dựa trên định dạng dữ liệu số được sử dụng trong các hoạt động kinh tế - xã hội.

Trong hệ sinh thái của nền kinh tế số, sẽ hình thành các cấp độ sau:

+ Cấp độ tương tác giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp;

+ Cấp độ hình thành năng lực để phát triển các ngành kinh tế;

+ Cấp độ điều kiện về môi trường hoạt động: khung pháp lý điều chỉnh, cơ sở hạ tầng và an ninh thông tin, nhân sự[7].

Để hình thành nền kinh tế số tại Liên bang Nga, sẽ sử dụng công nghệ số dữ liệu lớn, công nghệ thần kinh (neurotechnology), trí tuệ nhân tạo, công nghệ sản xuất mới, hệ thống sổ cái phân tán...[7;9].

Theo kết quả nghiên cứu của Rostelecom[4], các xu hướng toàn cầu chủ yếu trong lĩnh vực số hóa là Internet di động, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử, trong đó, các xu hướng bền vững và đột phá được gọi là blockchain và nhận dạng cá nhân qua hình ảnh. Đồng thời, phấn đấu đưa Liên bang Nga lên mức thứ 11 trong bảng xếp hạng phát triển xu hướng số hóa toàn cầu[10].

Theo kết quả khảo sát trong khuôn khổ nghiên cứu[2] về những kết quả thu được từ việc ứng dụng công nghệ số tại các tổ chức kinh doanh, trong số các tác động đáng kể của số hóa, nổi bật nhất là các hiệu ứng: tăng doanh thu, tăng tốc độ sản xuất sản phẩm và dịch vụ, tăng tính minh bạch trong hoạt động, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, giảm chi phí sản xuất, cũng như thu được các hiệu ứng gián tiếp trong các lĩnh vực hoạt động liên quan của công ty. Theo những người được hỏi, tác động lớn nhất bao gồm Internet kết nối vạn vật (IoT), tự động hóa sản xuất, công nghệ di động và truyền thông đa kênh, công nghệ ảo hóa, truy cập từ xa, thiết kế và mô hình hóa kỹ thuật số.

Các nghiên cứu[2;8;9] đã nêu ra những vấn đề cộm lên trong ứng dụng số hóa thời gian qua, đó là: thiết lập mục tiêu và nhiệm vụ của đề án số hóa chưa sát với thực tế, thông tin cơ bản về đối tượng ứng dụng các giải pháp số hóa không chính xác, sai sót trong lập kế hoạch thực hiện các loại hình và trình tự công việc, thiếu kỹ năng về công nghệ của người dùng, sự không chắc chắn về kinh tế trong nước, biến động của đồng Rúp, các hạn chế về hành lang pháp lý, thiếu các chuẩn mực về ứng dụng công nghệ số, thiếu các biện pháp hỗ trợ đặc biệt của nhà nước để sử dụng công nghệ số, sự chênh lệch về trình độ số hóa giữa các khu vực[2].

Theo các chuyên gia[9], nền kinh tế sẽ cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư nhờ tăng khả năng tiếp cận và hiệu quả của các dịch vụ công đối với các thủ tục đăng ký, chứng nhận và công chứng, phát triển hệ sinh thái dịch vụ kinh doanh, tăng tính minh bạch về các điều kiện kinh doanh, hình thành các nền tảng công nghệ chung cho tất cả những thành viên tham gia nền kinh tế số.


Để phát triển thành công nền kinh tế số, theo các nhà nghiên cứu, điều cần thiết là:

- Tạo sự cạnh tranh bình đẳng, bởi vì động lực chính để tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế số chính là khu vực doanh nghiệp; trong trường hợp này, Nhà nước chỉ nên đóng vai trò người khởi xướng và tổ chức việc tạo lập một cơ sở hạ tầng kỹ thuật số.

- Hình thành các nền tảng công nghệ chung, đảm bảo sự chuyển đổi đồng bộ của các tổ chức quan tâm sang các quan hệ kỹ thuật số.

- Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong nền kinh tế số, bởi vì định dạng kỹ thuật số liên quan đến các chủ thể và đối tượng mới của quan hệ pháp lý, quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể.

- Đào tạo và đào tạo lại các chuyên gia CNTT, cán bộ, công nhân viên của các doanh nghiệp và tổ chức thương mại, các cơ quan nhà nước, cũng như dân cư cả nước.

- Truyền thông đến người tiêu dùng và quảng bá các sản phẩm kỹ thuật số và các ứng dụng của chúng.

- Đảm bảo niềm tin của các chủ thể kinh tế và người sử dụng về tính an toàn của sản phẩm.

- Phát triển các giải pháp công nghệ mới với sự tham gia tích cực của Nhà nước.

Những kết quả dự kiến đạt được từ việc ứng dụng nền kinh tế số dưới góc độ tiện ích tích hợp cho xã hội bao gồm: các dịch vụ tiện ích và phương thức truyền thông giữa công dân và Nhà nước; tạo điều kiện phát triển xã hội tri thức ở Liên bang Nga; cải thiện phúc lợi và chất lượng cuộc sống của công dân, cũng như sự tiếp cận và chất lượng hàng hóa và dịch vụ; tăng nhận thức và kiến thức về số hóa; nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ công cho công dân và đảm bảo an ninh cả trong và ngoài nước về tổng thể[4].

Số hóa là cơ sở để nâng cao chất lượng quản lý hành chính công. Theo các chuyên gia[5], việc số hóa hành chính công bao gồm: chuyển giao toàn bộ các quy trình nội bộ và tương tác liên ngành theo định dạng kỹ thuật số, xây dựng các hệ thống phản hồi với các cơ quan nhà nước và tổ chức dịch vụ xã hội, thu thập và phân tích một lượng lớn dữ liệu để đưa ra những quyết định hiệu quả, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng quản lý hành chính công.

Xuất phát từ những lập luận trên, có thể kết luận rằng số hóa có tiềm năng nâng cao chất lượng quản lý hành chính công thông qua việc tăng sự hài lòng của các bên liên quan[1;3;5], điều này quyết định sự cần thiết phải phát triển một hệ thống quan điểm, định hướng số hóa hành chính công dựa trên mô hình nâng cao chất lượng hành chính công.

Vì vậy, số hóa nền kinh tế Liên bang Nga nhằm mục đích đạt được những kết quả về công nghệ, kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao trình độ phát triển và vị thế cạnh tranh cao hơn trên thị trường toàn cầu.

Kinh tế số và cơ hội của Việt Nam

Hiện nay, theo bảng xếp hạng quốc tế "Chỉ số phát triển kinh tế số của các quốc gia", tính đến năm 2017, Việt Nam đứng thứ 48/60 quốc gia có chỉ số phát triển kinh tế số nhanh trên thế giới (Bảng 1); đồng thời đứng vị trí thứ 22 về tốc độ phát triển số hóa[11]. Những con số này đã chứng tỏ sự thay đổi lớn trong mô hình kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, là bước ngoặc giúp kinh tế Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới. Rõ ràng, kinh tế số đang diễn ra nhanh chóng và có tác động to lớn, sâu rộng tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia; thúc đẩy quá trình chuyển đổi toàn diện trên tất cả các mặt của cuộc sống xã hội, từ tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ, phương thức kinh doanh, đến cách thức tiêu dùng, cách thức giao tiếp.

Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam năm 2019, Thứ trướng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ Thế Thắng dẫn nghiên cứu của Geogle và Temasek (Singapore) cho biết kinh tế số Việt Nam đạt 3 tỉ USD vào năm 2015, tăng lên 9 tỉ USD vào năm 2018 và dự báo đạt 30 tỉ USD vào năm 2025.

Trong sự chuyển biến này, doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế số. Chuyển đổi số mang lại giá trị to lớn cho các doanh nghiệp; đồng thời cũng tạo ra một số thách thức. Các doanh nghiệp cần chủ động tìm ra giải pháp ứng dụng công nghệ số, thực hiện chuyển đổi số, xây dựng chiến lược, lộ trình chuyển đổi số rõ ràng, có cơ sở khoa học và tham gia xây dựng các yếu tố nền tảng của nền kinh tế số.

Về phía Chính phủ, chủ động nghiên cứu và xây dựng các chính sách để Việt Nam có thể nhanh chóng khai thác các lợi ích tiềm năng này. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng Chiến lược quốc gia về cách mạng công nghiệp 4.0 đến năm 2030, trong đó có các chính sách phát triển kinh tế số.

Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế số tại Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đang xây dựng Đề án quốc gia về Chuyển đổi số, trong đó đề xuất các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để chuyển đổi số nền kinh tế, xã hội, chuyển đổi số cơ quan nhà nước và một số ngành trọng điểm.

Các chính sách này sẽ hướng tới xây dựng các yếu tố nền tảng cần thiết, để doanh nghiệp có thể thực hiện chuyển đổi số thành công, nâng cao năng suất, góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng nhanh hơn và bền vững hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Горбашко Е. А. Повышение качества управления на основе менеджмента качества // Стандарты и качество. 2009. № 3. С. 88-89.

2. Доклад «Цифровая экономика: глобальные тренды и практика российского бизнеса»/под ред. Д. С. Медов¬никова. [Электронный ресурс]. Нац. исслед. ун-т Высшая школа экономики». Москва. 2017. 121 с. - URL: https://imi.hse.ru/pr2017_1 (дата обращения: 19.10.2018).

3. Леонова Т. И. Оценка качества деятельности государственных органов / В. Г. Куганов, Т. И. Леонова, А. В. Лях. // Проблемы современной экономики. 2013. № 4 (48). С.217–228.

4. Мониторинг глобальных трендов цифровизации: отчет об исследовании // ПАО «Ростелеком», 2018. 30 с. - URL: https://www.company.rt.ru/projects/digital_trends/2018.pdf (дата обращения: 10.10.18).

5. Окрепилов В. В. Повышение качества государственных услуг посредством внедрения систем менеджмента качества / В. В. Окрепилов // Теория и философия хозяйства. 2012. № 6. С. 9-12.

6. Петров М., Буров В., Шклярук М., Шаров А. Государство как платформа. (Кибер) Государство для цифровой экономики. Цифровая трансформация. [Электронный ресурс]. - Москва. Центр стратегических разрабо¬ток. - Апрель, 2018. -52 с. - URL: https://www.csr.ru/wp-content/uploads/2018/05/GOSUDARSTVO-KAK-PLATFORMA_internet.pdf. (дата обращения: 10.10.2018)

7. Программа «Цифровая экономика Российской Федерации»: распоряжение Правительства Российской Фе¬дерации от 28 июля 2017 года № 1632-р. - URL: http://static.government.ru/media/files/9gFM4FHj4PsB79I5v7 yLVuPgu4bvR7M0.pdf (дата обращения: 09.10.18).

8. Россия онлайн: четыре приоритета для прорыва в цифровой экономике/ Степаненко А., Банке Б., Бутенко В. [и др.]. [Электронный ресурс]. -The Boston Consulting Group. -Октябрь, 2017. - 28 с. -URL: http://image-src.bcg.com/Images/Russia-Online_tcm27–178074.pdf. (дата обращения: 08.10.2018).

9. Цифровая Россия: новая реальность / Клинцов В., Аптекман А. [и др.]. [Электронный ре¬сурс]. -McKinsey&Company. -Июль, 2017. - 133 с. -URL: https://www.mckinsey.com/ru/our-insights (дата об¬ращения: 09.10.18).

10. Цифровая экономика: краткий статистический сборник / Г. И. Абдрахманова, Л. М. Гохберг, А. В. Демьянова и др.; Нац. исслед. ун-т Высшая школа экономики». - М.: НИУ ВШЭ, 2018. -96 с. -URL: https://issek.hse.ru/ data/2018/07/27/1152150310/ice2018kr.PDF (дата обращения 18.10.18).

11. Chakravorti B., Chaturved R. Sh. Digital Planet 2017. How Competitiveness and Trust in Digital Economies Vary Across the World. - The Fletcher School, Tufts University. -July, 2017. - 70 p.-URL: https://sites.tufts.edu/ digitalplanet/files/2017/05/Digital_Planet_2017_FINAL.pdf (дата обращения: 08.10.2018).



PGS., TS. Nguyễn Hồng Nga

(TCNH chuyên đề THNH số 7/2019)
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI - Tương lai cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

GenAI đang mở ra những cơ hội chưa từng có trong việc cá nhân hóa dịch vụ khách hàng tại các ngân hàngViệt Nam. Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức trong việc triển khai GenAI, tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam đang dần vượt qua những rào cản này để tận dụng tiềm năng to lớn của GenAI trong cung cấp các sản phẩm, dịch vụ. Với sự phát triển của công nghệ và sự chuyển đổi số mạnh mẽ trong ngành Ngân hàng, GenAI hứa hẹn sẽ mang lại những trải nghiệm khách hàng cá nhân hóa tiên tiến, góp phần nâng cao sự hài lòng của khách hàng, tăng cường lòng trung thành và thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho các ngân hàng trong kỷ nguyên số.
Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khách hàng ngày càng mong muốn nhiều hơn sự cách tân, đổi mới đến từ các ngân hàng. Do đó, đổi mới sáng tạo không chỉ là yếu tố cần thiết để các ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, mà còn là chìa khóa để duy trì năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, từ đó nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế số.
AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent: Xu hướng công nghệ mới, thực tiễn quốc tế và giải pháp áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

AI Agent không chỉ là một xu hướng công nghệ mà còn là động lực quan trọng để các ngân hàng thích nghi và phát triển trong thời đại số hóa.
Chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại - Kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam

Chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại - Kinh nghiệm một số nước và khuyến nghị cho Việt Nam

Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng không chỉ đơn thuần là việc tích hợp công nghệ số vào mọi khía cạnh của hoạt động, mà còn là quá trình thúc đẩy sự thay đổi và cải thiện toàn diện. Qua đó, ngân hàng không chỉ tạo ra các phương pháp mới hoặc điều chỉnh các quy trình kinh doanh, mà còn tạo điều kiện cho việc thay đổi văn hóa tổ chức và cải thiện trải nghiệm của khách hàng.
Phát triển dữ liệu - cơ hội lịch sử để Việt Nam bứt phá

Phát triển dữ liệu - cơ hội lịch sử để Việt Nam bứt phá

Từ đời sống hằng ngày đến quản trị quốc gia, dữ liệu hiện diện khắp nơi và đang trở thành yếu tố then chốt trong mọi quyết định. Đó chính là nền tảng của xã hội số, là động lực mạnh mẽ cho phát triển.
Chiến lược ưu tiên thiết bị di động trong hoạt động ngân hàng

Chiến lược ưu tiên thiết bị di động trong hoạt động ngân hàng

Chiến lược ưu tiên thiết bị di động trong hoạt động ngân hàng thể hiện một cách tiếp cận mang tính chuyển đổi, trong đó các tổ chức tài chính ưu tiên nền tảng di động làm kênh chính để cung cấp dịch vụ và tương tác với khách hàng. Sự thay đổi mô hình này được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ nhanh chóng và hành vi người tiêu dùng đang phát triển, đã định nghĩa lại các mô hình ngân hàng truyền thống.
Tiềm năng ứng dụng công nghệ Blockchain trong quá trình chính thức hóa nền kinh tế phi chính thức tại  Việt Nam

Tiềm năng ứng dụng công nghệ Blockchain trong quá trình chính thức hóa nền kinh tế phi chính thức tại Việt Nam

Mối quan hệ giữa kinh tế phi chính thức và sự phát triển kinh tế là một chủ đề mang tính phức tạp và đa chiều. Trong một số giai đoạn phát triển, khu vực kinh tế phi chính thức có thể đóng vai trò tích cực như một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc