Một số khuyến nghị trong việc tăng cường các quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Công nghệ & ngân hàng số
Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng.
aa

Tóm tắt: Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng. Tội phạm mạng và công nghệ cao ngày càng trở nên tinh vi, đa dạng và gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và an ninh quốc gia. Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã xây dựng khung pháp lý cho tội phạm mạng nói riêng và tội phạm công nghệ cao nói chung. Tuy nhiên, những quy định hiện hành chưa thể bao quát hết các trường hợp tội phạm. Phạm vi bài viết này sẽ tập trung phân tích, đánh giá các quy định quốc tế trong Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng ban hành ngày 23/11/2001 (Công ước Budapest 2001) và những đổi mới trong hoạt động tư pháp của Singapore. Qua đó, đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tội phạm công nghệ cao thời gian tới.

Từ khóa: Công nghệ cao, pháp luật quốc tế, tội phạm.

SOME RECOMMENDATIONS TO STRENGTHEN LEGAL REGULATIONS ON HIGH-TECH CRIMES


Abstract: The explosion of digital technology and the rapid development of cyberspace have created new opportunities but also posed enormous challenges to cyber security. Cybercrime and high-tech crimes are becoming increasingly sophisticated, perse and causing serious consequences for the economy, society and national security. Currently, Vietnamese law has built a legal framework for cybercrime in particular and high-tech crime in general. However, current regulations cannot cover all criminal cases. In this article, the author focus on analyzing and evaluating international regulations in the Budapest Convention 2001 and innovations in Singapore's judicial activities. Thereby, providing some lessons for Vietnam in building and perfecting the law on high-tech crime in the coming time.

Keywords: High-tech crimes, international law, crimes.

1. Đặt vấn đề

Một thống kê của Microsoft cho thấy, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng bắt nạt trực tuyến ở mức báo động, với hơn một nửa số người dùng Internet thừa nhận đã từng tham gia hoặc chứng kiến các hành vi này
1. Trong kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV về tình hình tội phạm công nghệ cao, theo đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà - Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội với từ khóa “Bắt giữ tội phạm công nghệ cao” trên công cụ tìm kiếm Google đã thu về được khoảng 19.100.000 kết quả trong vòng 0,39 giây2. Thực tế cho thấy, những đối tượng là người nước ngoài nhập cảnh vào nước ta sử dụng những thiết bị công nghệ cao để lừa đảo, tống tiền người dân hoặc có hành vi làm giả thẻ tín dụng… nhằm mục đích chiếm đoạt tài khoản ngân hàng xảy ra tại nhiều địa phương trong thời gian qua. Chính vì vậy, nguy cơ mất an toàn thông tin có thể xuất hiện nhiều hơn, không những gây rủi ro trong việc ứng dụng công nghệ cao vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội mà còn ảnh hưởng đến bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia (Hà Việt Hưng, 2019).

Mặt khác, nhu cầu sử dụng Internet ở nước ta là rất lớn. Khảo sát của Facebook và WARC
3 cho thấy, người dùng Internet ở Việt Nam dành nhiều thời gian cho Internet hơn sau khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Theo nghiên cứu mới nhất của Datareportal và Wearesocial vào đầu năm 2024, hiện Việt Nam có khoảng 78,44 triệu người sử dụng Internet và 72,7 triệu người sử dụng mạng xã hội vào tháng 01/2024, tương đương với 73,3% tổng dân số4; ngoài ra, số lượng thuê bao di động tại Việt Nam đạt 168,5 triệu kết nối, tương đương với 169,8% tổng dân số. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh chóng, các quốc gia trong đó có Việt Nam đang dần hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông để thích ứng với sự đổi mới của thị trường. Bên cạnh việc phát triển của công nghệ cao thì vấn đề tội phạm trong lĩnh vực này cũng gia tăng đáng kể (Hồ Thế Hòe, 2013). Nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao.


Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng (Nguồn ảnh: Internet)

Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây có đề cập đến định nghĩa và hình phạt đối với tội phạm công nghệ cao. Một trong những nghiên cứu tiêu biểu của Evon, A. và cộng sự (2019) đề cập đến những định nghĩa học thuật về tội phạm mạng và quy định trừng phạt. Nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau trong cách định nghĩa từ quan điểm của mỗi quốc gia. Bài nghiên cứu thông qua quy định pháp luật của 5 quốc gia khác nhau liên quan đến tội phạm mạng, bao gồm: Jordan, Oman, Kuwait, Qatar và Saudi Arabia. Ở trong nước, nghiên cứu của Cao Anh Đức (2015) đi sâu tìm hiểu tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, các thủ đoạn phạm tội và dự báo về tình hình tội phạm có sử dụng công nghệ cao. Hay nghiên cứu của Trần Đoàn Hạnh (2016) phân tích hiện trạng, đánh giá những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao. Hoặc nghiên cứu của Hoàng Việt Quỳnh (2016) tập trung trao đổi về tội phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Nhìn chung, các nghiên cứu đã phần nào khái quát bức tranh về tội phạm công nghệ cao và mang lại góc nhìn tổng quan hơn. Tội phạm công nghệ cao không chỉ là vấn đề của cá nhân mà còn là thách thức lớn đối với xã hội. Mục tiêu của nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích các quy định trong Công ước Budapest 2001, sự đổi mới của Bộ luật Hình sự Singapore và việc truy tố tội phạm công nghệ cao Viện Công tố nước này về tội phạm công nghệ cao nhằm đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

2. Quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao tại Việt Nam

Xét về khái niệm “công nghệ cao”, căn cứ theo khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có”.

Xét về khái niệm “tội phạm công nghệ cao”, dựa theo khoản 7 Điều 2 Luật An ninh mạng 2018 thì: “Tội phạm mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự”. Theo đó, từ Điều 285 đến Điều 294 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự) quy định liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì tội phạm công nghệ cao có thể được xem là các hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa ở những lĩnh vực khác, tiêu biểu như tài chính - ngân hàng, điện tử - viễn thông (Đinh Thế Hưng và Lê Thị Hồng Xuân, 2019).

Tóm lại, có thể hiểu, tội phạm công nghệ cao là những tội phạm liên quan đến các hành vi phạm pháp được thực hiện thông qua hoặc liên quan đến máy tính, mạng Internet và các công nghệ số. Chúng bao gồm cả những hình thức tội phạm mới nổi lên cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và cả những tội phạm truyền thống được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật số.

3. Kinh nghiệm quốc tế trong quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Công ước Budapest 2001 phân chia tội phạm mạng thành 4 nhóm, bao gồm: (1) Các tội phạm chống lại tính bí mật, toàn vẹn và sẵn có của dữ liệu máy tính và hệ thống máy tính
5; (2) Các tội phạm liên quan đến máy tính6; (3) Các tội phạm liên quan đến nội dung7; (4) Các tội phạm xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan8. Bên cạnh đó, Công ước Budapest 2001 cũng quy định cụ thể về trách nhiệm bổ trợ và biện pháp chế tài; trong đó, tại khoản 1, khoản 2 Điều 12 quy định về trách nhiệm của pháp nhân như sau:

“1. Các quốc gia thành viên phải ban hành luật và các biện pháp cần thiết khác để đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với các hành vi phạm tội quy định trong công ước này, được bất cứ cá nhân nào thực hiện vì lợi ích của pháp nhân, nếu cá nhân ấy là đại diện hoặc một phần trong cơ quan của pháp nhân và nắm vị trí lãnh đạo trên cơ sở.

a. Thẩm quyền đại diện cho pháp nhân.

b. Thẩm quyền ra quyết định nhân danh pháp nhân.

c. Thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát trong nội bộ pháp nhân.

2. Ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện tốt việc giám sát hoặc kiểm soát của cá nhân đề cập trong khoản 1 làm cho tội phạm quy định trong công ước này được thực hiện bởi cá nhân hành xử theo thẩm quyền của mình vì lợi ích của pháp nhân”. Theo quy định này thì việc pháp nhân có hành vi vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm với hành vi phạm tội của mình. Biện pháp chế tài cụ thể được quy định tại khoản 2 Điều 13 của Công ước Budapest 2001: “Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm phù hợp với các quy định tại Điều 12 và bị áp dụng các biện pháp chế tài hình sự hoặc phi hình sự mang tính tương xứng, hiệu quả và có tính răn đe hoặc các biện pháp khác, bao gồm cả chế tài phạt tiền”.

Nếu Công ước Budapest 2001 đề cập những quy định pháp luật mang tính khuyến khích chấp hành thì kinh nghiệm truy tố tội phạm công nghệ cao của Viện Công tố Singapore sẽ tập trung vào chức năng truy tố tội phạm, trong đó có 2 điểm chính: Hệ thống pháp luật và sự chuyên môn hóa. Ở nhiều nước, truy tố thuộc thẩm quyền của Viện Công tố. Tuy nhiên, tùy vào cách tổ chức của mỗi nước mà Viện Công tố được tổ chức ở Bộ Tư pháp hoặc ở Tòa án. Bộ luật Hình sự Singapore đã được sửa đổi rất nhiều lần nhằm đảm bảo các loại tội phạm trong việc giả mạo giấy tờ, tài liệu, đặc biệt là các tài liệu điện tử hay các phương thức giả mạo sử dụng công nghệ cao, bên cạnh đó là sự thừa nhận các thông tin có được từ hệ thống máy tính là chứng cứ. Ngoài ra, đối với các hành vi quấy rối trước đây, hành vi phạm tội quấy rối người khác chỉ áp dụng cho các hành vi được thực hiện trong thế giới thực, nhưng theo quy định của luật mới, việc sử dụng các phương tiện truyền thông như Internet, mạng xã hội… cùng với sự phát triển của các phương thức giao tiếp trực tuyến khác đã mở rộng phạm vi của hành vi này trên không gian mạng. Viện Công tố Singapore cũng chủ động xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các đối tác trong và ngoài nước như: Các lượng Cảnh sát, Viện kiểm sát, Viện Công tố trong và ngoài khối ASEAN; Bộ Tư pháp Hoa Kỳ; lực lượng Cảnh sát hình sự quốc tế Interpol… trong công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm sử dụng công nghệ cao (Nguyễn Đức Hà, 2018). Ở một khía cạnh khác, Viện Công tố Singapore luôn tìm hiểu, phát hiện những công tố viên có tố chất, đặc biệt đam mê, am hiểu trong lĩnh vực công nghệ, từ đó xây dựng đội ngũ công tố viên phù hợp cho việc xử lý loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, dần hoàn thiện nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành tư pháp của Singapore.

4. Một số khuyến nghị cho Việt Nam nhằm tăng cường quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Quy định pháp luật của Việt Nam về tội phạm công nghệ cao đã có nhiều tiến bộ tích cực trong nhìn nhận rủi ro và cải thiện từng ngày. Tuy nhiên, trước tình hình hội nhập thông tin toàn cầu như hiện nay, tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng đang ngày tăng, ở cả số lượng và tính chất nguy hiểm. Để đáp ứng yêu cầu phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao, Việt Nam cần tăng cường xây dựng hệ thống quy định pháp luật vững chắc hơn nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Một là, dựa trên tinh thần của Công ước Budapest 2001, pháp luật Việt Nam cần quy định rõ ràng trách nhiệm của pháp nhân trong việc giám sát và kiểm soát hành vi của nhân viên. Cụ thể như sau: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu không thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao, ngay cả khi những hành vi này được thực hiện trong quá trình công tác và vì lợi ích của pháp nhân. Đồng thời, pháp nhân có nghĩa vụ hợp tác với cơ quan chức năng trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc”.

Hai là, việc xác định rõ loại hình và mức độ hình phạt đối với tội phạm công nghệ cao, đặc biệt là đối với người nước ngoài, là một yêu cầu cấp bách nhằm đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả trong thực thi pháp luật và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật xuyên quốc gia. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần có những quy định cụ thể, chi tiết hơn trong cả luật hình sự và luật hành chính nhằm điều chỉnh phù hợp các tội phạm (hình sự) và hình phạt (hành chính và hình sự) về tội phạm công nghệ cao để tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và tạo ra lỗ hổng pháp lý.

Ba là, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực ngày càng tiệm cận hơn với các nước phát triển trên thế giới. Cán bộ các bộ, ngành cần không ngừng chủ động nâng cao trình độ và năng lực thực thi, đặc biệt là về pháp luật quốc tế, vận dụng và triển khai các hiệp ước, công ước chung để có thể tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong thời kỳ hội nhập. Mặt khác, Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành cũng cần đầu tư mạnh mẽ vào việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trang bị cho họ những kiến thức và kỹ năng cần thiết để có thể ứng dụng công nghệ vào công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án liên quan đến công nghệ.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống tội phạm công nghệ cao. Bên cạnh các quy định đã có hiện tại, các cơ quan cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các chính sách thúc đẩy kết nối giữa các cơ quan đối tác trong và ngoài nước, đồng thời khuyến khích nâng cao nhận thức của người dân về các nguy cơ của tội phạm mạng, đầu tư vào công nghệ để phát hiện và ngăn chặn tội phạm tại Việt Nam nói riêng và xây dựng một mặt trận chung chống lại tội phạm công nghệ cao trên toàn cầu nói chung.

5. Kết luận

Sự bùng nổ của không gian mạng và sự phát triển thần tốc của Internet đã tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tội phạm công nghệ phát sinh và ngày càng tinh vi. Trước thực tế này, việc hoàn thiện khung pháp lý về tội phạm công nghệ cao trở thành một yêu cầu cấp bách. Ở Việt Nam, một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong Bộ luật Hình sự. Do đó, việc cập nhật và bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến tội phạm công nghệ cao vào Bộ luật Hình sự nói riêng và các luật liên quan đến công nghệ cao nói chung là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng kịp thời những diễn biến phức tạp của tình hình công nghệ và an ninh mạng quốc gia.

1 https://news.microsoft.com/vi-vn/2020/09/30/nghien-cuu-cua-microsoft-cho-thay-cu-10-nguoi-dung-internet-tai-viet-nam-thi-co-hon-5-nguoi-lien-quan-den-cac-hanh-vi-bat-nat/, truy cập ngày 25/7/2024.
2 https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=47827&CategoryId=0, truy cập ngày 25/7/2024.
3 https://www.warc.com/Welcome, truy cập ngày 25/7/2024.
4 Báo cáo ước tính dân số của Việt Nam đạt 99,19 triệu người vào tháng 01/2024.
5 Điều 2 đến Điều 6 Công ước Budapest 2001.
6 Điều 7 và Điều 8 Công ước Budapest 2001.
7 Điều 9 Công ước Budapest 2001.
8 Điều 10 Công ước Budapest 2001.


Tài liệu tham khảo:


1. Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng ban hành ngày 23/11/2001.

2. Bộ luật Hình sự Singapore năm 1871; sửa đổi, bổ sung lần gần nhất vào năm 2021.
3. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017.
4. Cao Anh Đức (2015), “Tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, thủ đoạn phạm tội và dự báo”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 16(296), trang 37 - 43.
5. Evon A. T., Auhood, A., Shaha, A. and Ghadah, A. (2019), “Cyber Security Crime and Punishment: Comparative Study of the Laws of Jordan, Kuwait, Qatar, Oman, and Saudi Arabia”, International Journal of Cyber Warfare and Terrorism, 8(3), pages 46 - 59.
6. Nguyễn Đức Hà (2018), “Kinh nghiệm truy tố tội phạm sử dụng công nghệ cao của Viện Công tố Singapore”, Tạp chí Kiểm sát,
https://kiemsat.vn/kinh-nghiem-truy-to-toi-pham-su-dung-cong-nghe-cao-cua-vien-cong-to-singapore-50807.html, truy cập ngày 25/7/2024.
7. Trần Đoàn Hạnh (2016), “Những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2+3 (306+307), trang 103 - 111.
8. Hồ Thế Hòe (2013), “Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/687, truy cập ngày 25/7/2024.
9. Hà Việt Hưng (2019), “Một số kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=690, truy cập ngày 25/7/2024.
10. Hoàng Việt Quỳnh (2016), “Một số trao đổi về tội phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát Nhân dân.
11. Đinh Thế Hưng và Lê Thị Hồng Xuân (2019), “Tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tòa án nhân dân.


Nguyễn Hoàng Nam
Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Tokenization trong lĩnh vực tài chính

Những năm gần đây, token được sử dụng rộng rãi đối với các giao dịch trực tuyến trong lĩnh vực tài chính -ngân hàng, nhằm đảm bảo an toàn cho tài khoản của khách hàng. Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến xu hướng tạo dựng token điện tử trên các nền tảng có khả năng lập trình với mục tiêu cung cấp hạ tầng cơ sở (gọi là sắp đặt token) và mã hóa các token (tokenization) để hỗ trợ các bên tham gia phát hành, chuyển giao tiền tệ và những tài sản khác, bắt đầu được triển khai trên thị trường tài sản ảo và nhanh chóng được nghiên cứu, thử nghiệm rộng rãi.
Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện những "mảnh ghép" của hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới

Ngày 29/5/2025, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Thời báo Ngân hàng đã phối hợp với Vụ Thanh toán - NHNN tổ chức sự kiện “Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025” với chủ đề “Hệ sinh thái số thông minh trong kỷ nguyên mới”. Tham dự sự kiện có đồng chí Phạm Minh Chính - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06.
Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Xu hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số

Bài viết phân tích sự chuyển dịch của hệ thống chi nhánh ngân hàng truyền thống trong kỷ nguyên số, nhấn mạnh vai trò của hành vi khách hàng, hiệu quả chi phí và công nghệ. Mô hình hybrid được xem là giải pháp tối ưu, kết hợp giữa kênh số và chi nhánh truyền thống. Nghiên cứu đề xuất tái cấu trúc mạng lưới, nâng cao năng lực nhân sự và ứng dụng dữ liệu lớn để phục vụ đa dạng nhu cầu khách hàng.
Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Bài viết đề cập đến rủi ro an ninh mạng trong dịch vụ Mobile Banking tại Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo mật toàn diện kết hợp GNN-GCD với các công nghệ định danh như IMEI, CCCD và VNeID. Hệ thống còn tích hợp mã HLV và thuật toán AES 256-bit để bảo vệ dữ liệu, giúp nâng cao độ bảo mật và tăng niềm tin người dùng.
Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Tường lửa dựa trên các tập luật là công cụ phổ biến giúp bảo vệ máy chủ ứng dụng web trước các cuộc tấn công tinh vi từ tin tặc, đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức, doanh nghiệp và ngân hàng. Bài viết này nghiên cứu việc ứng dụng mô hình học máy để đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của OWASP CRS. Đây là một trong những tập luật phổ biến được sử dụng cho tường lửa ứng dụng web.
Chuyển đổi số ngân hàng dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo

Chuyển đổi số ngân hàng dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo

Bài viết phân tích vai trò trọng yếu của AI trong chuyển đổi số ngành Ngân hàng, giúp tối ưu vận hành, quản lý rủi ro và nâng cao trải nghiệm khách hàng. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra những thách thức về bảo mật dữ liệu và đề xuất định hướng phát triển bền vững
Ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Bài viết này phân tích thực trạng ứng dụng Blockchain trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam và gợi ý định hướng phát triển trong tương lai.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Chuyển đổi số mang lại cơ hội phát triển cho ngành Ngân hàng nhưng cũng làm gia tăng rủi ro xâm phạm dữ liệu cá nhân. Dù pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã có cải thiện, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Bài viết phân tích thực trạng pháp lý hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện phù hợp với xu hướng chuyển đổi số.
Xem thêm
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc