Một số khuyến nghị trong việc tăng cường các quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Công nghệ & ngân hàng số
Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng.
aa

Tóm tắt: Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng. Tội phạm mạng và công nghệ cao ngày càng trở nên tinh vi, đa dạng và gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và an ninh quốc gia. Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã xây dựng khung pháp lý cho tội phạm mạng nói riêng và tội phạm công nghệ cao nói chung. Tuy nhiên, những quy định hiện hành chưa thể bao quát hết các trường hợp tội phạm. Phạm vi bài viết này sẽ tập trung phân tích, đánh giá các quy định quốc tế trong Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng ban hành ngày 23/11/2001 (Công ước Budapest 2001) và những đổi mới trong hoạt động tư pháp của Singapore. Qua đó, đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tội phạm công nghệ cao thời gian tới.

Từ khóa: Công nghệ cao, pháp luật quốc tế, tội phạm.

SOME RECOMMENDATIONS TO STRENGTHEN LEGAL REGULATIONS ON HIGH-TECH CRIMES


Abstract: The explosion of digital technology and the rapid development of cyberspace have created new opportunities but also posed enormous challenges to cyber security. Cybercrime and high-tech crimes are becoming increasingly sophisticated, perse and causing serious consequences for the economy, society and national security. Currently, Vietnamese law has built a legal framework for cybercrime in particular and high-tech crime in general. However, current regulations cannot cover all criminal cases. In this article, the author focus on analyzing and evaluating international regulations in the Budapest Convention 2001 and innovations in Singapore's judicial activities. Thereby, providing some lessons for Vietnam in building and perfecting the law on high-tech crime in the coming time.

Keywords: High-tech crimes, international law, crimes.

1. Đặt vấn đề

Một thống kê của Microsoft cho thấy, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng bắt nạt trực tuyến ở mức báo động, với hơn một nửa số người dùng Internet thừa nhận đã từng tham gia hoặc chứng kiến các hành vi này
1. Trong kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV về tình hình tội phạm công nghệ cao, theo đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà - Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội với từ khóa “Bắt giữ tội phạm công nghệ cao” trên công cụ tìm kiếm Google đã thu về được khoảng 19.100.000 kết quả trong vòng 0,39 giây2. Thực tế cho thấy, những đối tượng là người nước ngoài nhập cảnh vào nước ta sử dụng những thiết bị công nghệ cao để lừa đảo, tống tiền người dân hoặc có hành vi làm giả thẻ tín dụng… nhằm mục đích chiếm đoạt tài khoản ngân hàng xảy ra tại nhiều địa phương trong thời gian qua. Chính vì vậy, nguy cơ mất an toàn thông tin có thể xuất hiện nhiều hơn, không những gây rủi ro trong việc ứng dụng công nghệ cao vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội mà còn ảnh hưởng đến bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia (Hà Việt Hưng, 2019).

Mặt khác, nhu cầu sử dụng Internet ở nước ta là rất lớn. Khảo sát của Facebook và WARC
3 cho thấy, người dùng Internet ở Việt Nam dành nhiều thời gian cho Internet hơn sau khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Theo nghiên cứu mới nhất của Datareportal và Wearesocial vào đầu năm 2024, hiện Việt Nam có khoảng 78,44 triệu người sử dụng Internet và 72,7 triệu người sử dụng mạng xã hội vào tháng 01/2024, tương đương với 73,3% tổng dân số4; ngoài ra, số lượng thuê bao di động tại Việt Nam đạt 168,5 triệu kết nối, tương đương với 169,8% tổng dân số. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh chóng, các quốc gia trong đó có Việt Nam đang dần hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông để thích ứng với sự đổi mới của thị trường. Bên cạnh việc phát triển của công nghệ cao thì vấn đề tội phạm trong lĩnh vực này cũng gia tăng đáng kể (Hồ Thế Hòe, 2013). Nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao.


Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng (Nguồn ảnh: Internet)

Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây có đề cập đến định nghĩa và hình phạt đối với tội phạm công nghệ cao. Một trong những nghiên cứu tiêu biểu của Evon, A. và cộng sự (2019) đề cập đến những định nghĩa học thuật về tội phạm mạng và quy định trừng phạt. Nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau trong cách định nghĩa từ quan điểm của mỗi quốc gia. Bài nghiên cứu thông qua quy định pháp luật của 5 quốc gia khác nhau liên quan đến tội phạm mạng, bao gồm: Jordan, Oman, Kuwait, Qatar và Saudi Arabia. Ở trong nước, nghiên cứu của Cao Anh Đức (2015) đi sâu tìm hiểu tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, các thủ đoạn phạm tội và dự báo về tình hình tội phạm có sử dụng công nghệ cao. Hay nghiên cứu của Trần Đoàn Hạnh (2016) phân tích hiện trạng, đánh giá những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao. Hoặc nghiên cứu của Hoàng Việt Quỳnh (2016) tập trung trao đổi về tội phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Nhìn chung, các nghiên cứu đã phần nào khái quát bức tranh về tội phạm công nghệ cao và mang lại góc nhìn tổng quan hơn. Tội phạm công nghệ cao không chỉ là vấn đề của cá nhân mà còn là thách thức lớn đối với xã hội. Mục tiêu của nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích các quy định trong Công ước Budapest 2001, sự đổi mới của Bộ luật Hình sự Singapore và việc truy tố tội phạm công nghệ cao Viện Công tố nước này về tội phạm công nghệ cao nhằm đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

2. Quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao tại Việt Nam

Xét về khái niệm “công nghệ cao”, căn cứ theo khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có”.

Xét về khái niệm “tội phạm công nghệ cao”, dựa theo khoản 7 Điều 2 Luật An ninh mạng 2018 thì: “Tội phạm mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự”. Theo đó, từ Điều 285 đến Điều 294 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự) quy định liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì tội phạm công nghệ cao có thể được xem là các hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa ở những lĩnh vực khác, tiêu biểu như tài chính - ngân hàng, điện tử - viễn thông (Đinh Thế Hưng và Lê Thị Hồng Xuân, 2019).

Tóm lại, có thể hiểu, tội phạm công nghệ cao là những tội phạm liên quan đến các hành vi phạm pháp được thực hiện thông qua hoặc liên quan đến máy tính, mạng Internet và các công nghệ số. Chúng bao gồm cả những hình thức tội phạm mới nổi lên cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và cả những tội phạm truyền thống được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật số.

3. Kinh nghiệm quốc tế trong quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Công ước Budapest 2001 phân chia tội phạm mạng thành 4 nhóm, bao gồm: (1) Các tội phạm chống lại tính bí mật, toàn vẹn và sẵn có của dữ liệu máy tính và hệ thống máy tính
5; (2) Các tội phạm liên quan đến máy tính6; (3) Các tội phạm liên quan đến nội dung7; (4) Các tội phạm xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan8. Bên cạnh đó, Công ước Budapest 2001 cũng quy định cụ thể về trách nhiệm bổ trợ và biện pháp chế tài; trong đó, tại khoản 1, khoản 2 Điều 12 quy định về trách nhiệm của pháp nhân như sau:

“1. Các quốc gia thành viên phải ban hành luật và các biện pháp cần thiết khác để đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với các hành vi phạm tội quy định trong công ước này, được bất cứ cá nhân nào thực hiện vì lợi ích của pháp nhân, nếu cá nhân ấy là đại diện hoặc một phần trong cơ quan của pháp nhân và nắm vị trí lãnh đạo trên cơ sở.

a. Thẩm quyền đại diện cho pháp nhân.

b. Thẩm quyền ra quyết định nhân danh pháp nhân.

c. Thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát trong nội bộ pháp nhân.

2. Ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện tốt việc giám sát hoặc kiểm soát của cá nhân đề cập trong khoản 1 làm cho tội phạm quy định trong công ước này được thực hiện bởi cá nhân hành xử theo thẩm quyền của mình vì lợi ích của pháp nhân”. Theo quy định này thì việc pháp nhân có hành vi vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm với hành vi phạm tội của mình. Biện pháp chế tài cụ thể được quy định tại khoản 2 Điều 13 của Công ước Budapest 2001: “Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm phù hợp với các quy định tại Điều 12 và bị áp dụng các biện pháp chế tài hình sự hoặc phi hình sự mang tính tương xứng, hiệu quả và có tính răn đe hoặc các biện pháp khác, bao gồm cả chế tài phạt tiền”.

Nếu Công ước Budapest 2001 đề cập những quy định pháp luật mang tính khuyến khích chấp hành thì kinh nghiệm truy tố tội phạm công nghệ cao của Viện Công tố Singapore sẽ tập trung vào chức năng truy tố tội phạm, trong đó có 2 điểm chính: Hệ thống pháp luật và sự chuyên môn hóa. Ở nhiều nước, truy tố thuộc thẩm quyền của Viện Công tố. Tuy nhiên, tùy vào cách tổ chức của mỗi nước mà Viện Công tố được tổ chức ở Bộ Tư pháp hoặc ở Tòa án. Bộ luật Hình sự Singapore đã được sửa đổi rất nhiều lần nhằm đảm bảo các loại tội phạm trong việc giả mạo giấy tờ, tài liệu, đặc biệt là các tài liệu điện tử hay các phương thức giả mạo sử dụng công nghệ cao, bên cạnh đó là sự thừa nhận các thông tin có được từ hệ thống máy tính là chứng cứ. Ngoài ra, đối với các hành vi quấy rối trước đây, hành vi phạm tội quấy rối người khác chỉ áp dụng cho các hành vi được thực hiện trong thế giới thực, nhưng theo quy định của luật mới, việc sử dụng các phương tiện truyền thông như Internet, mạng xã hội… cùng với sự phát triển của các phương thức giao tiếp trực tuyến khác đã mở rộng phạm vi của hành vi này trên không gian mạng. Viện Công tố Singapore cũng chủ động xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các đối tác trong và ngoài nước như: Các lượng Cảnh sát, Viện kiểm sát, Viện Công tố trong và ngoài khối ASEAN; Bộ Tư pháp Hoa Kỳ; lực lượng Cảnh sát hình sự quốc tế Interpol… trong công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm sử dụng công nghệ cao (Nguyễn Đức Hà, 2018). Ở một khía cạnh khác, Viện Công tố Singapore luôn tìm hiểu, phát hiện những công tố viên có tố chất, đặc biệt đam mê, am hiểu trong lĩnh vực công nghệ, từ đó xây dựng đội ngũ công tố viên phù hợp cho việc xử lý loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, dần hoàn thiện nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành tư pháp của Singapore.

4. Một số khuyến nghị cho Việt Nam nhằm tăng cường quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Quy định pháp luật của Việt Nam về tội phạm công nghệ cao đã có nhiều tiến bộ tích cực trong nhìn nhận rủi ro và cải thiện từng ngày. Tuy nhiên, trước tình hình hội nhập thông tin toàn cầu như hiện nay, tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng đang ngày tăng, ở cả số lượng và tính chất nguy hiểm. Để đáp ứng yêu cầu phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao, Việt Nam cần tăng cường xây dựng hệ thống quy định pháp luật vững chắc hơn nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Một là, dựa trên tinh thần của Công ước Budapest 2001, pháp luật Việt Nam cần quy định rõ ràng trách nhiệm của pháp nhân trong việc giám sát và kiểm soát hành vi của nhân viên. Cụ thể như sau: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu không thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao, ngay cả khi những hành vi này được thực hiện trong quá trình công tác và vì lợi ích của pháp nhân. Đồng thời, pháp nhân có nghĩa vụ hợp tác với cơ quan chức năng trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc”.

Hai là, việc xác định rõ loại hình và mức độ hình phạt đối với tội phạm công nghệ cao, đặc biệt là đối với người nước ngoài, là một yêu cầu cấp bách nhằm đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả trong thực thi pháp luật và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật xuyên quốc gia. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần có những quy định cụ thể, chi tiết hơn trong cả luật hình sự và luật hành chính nhằm điều chỉnh phù hợp các tội phạm (hình sự) và hình phạt (hành chính và hình sự) về tội phạm công nghệ cao để tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và tạo ra lỗ hổng pháp lý.

Ba là, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực ngày càng tiệm cận hơn với các nước phát triển trên thế giới. Cán bộ các bộ, ngành cần không ngừng chủ động nâng cao trình độ và năng lực thực thi, đặc biệt là về pháp luật quốc tế, vận dụng và triển khai các hiệp ước, công ước chung để có thể tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong thời kỳ hội nhập. Mặt khác, Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành cũng cần đầu tư mạnh mẽ vào việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trang bị cho họ những kiến thức và kỹ năng cần thiết để có thể ứng dụng công nghệ vào công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án liên quan đến công nghệ.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống tội phạm công nghệ cao. Bên cạnh các quy định đã có hiện tại, các cơ quan cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các chính sách thúc đẩy kết nối giữa các cơ quan đối tác trong và ngoài nước, đồng thời khuyến khích nâng cao nhận thức của người dân về các nguy cơ của tội phạm mạng, đầu tư vào công nghệ để phát hiện và ngăn chặn tội phạm tại Việt Nam nói riêng và xây dựng một mặt trận chung chống lại tội phạm công nghệ cao trên toàn cầu nói chung.

5. Kết luận

Sự bùng nổ của không gian mạng và sự phát triển thần tốc của Internet đã tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tội phạm công nghệ phát sinh và ngày càng tinh vi. Trước thực tế này, việc hoàn thiện khung pháp lý về tội phạm công nghệ cao trở thành một yêu cầu cấp bách. Ở Việt Nam, một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong Bộ luật Hình sự. Do đó, việc cập nhật và bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến tội phạm công nghệ cao vào Bộ luật Hình sự nói riêng và các luật liên quan đến công nghệ cao nói chung là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng kịp thời những diễn biến phức tạp của tình hình công nghệ và an ninh mạng quốc gia.

1 https://news.microsoft.com/vi-vn/2020/09/30/nghien-cuu-cua-microsoft-cho-thay-cu-10-nguoi-dung-internet-tai-viet-nam-thi-co-hon-5-nguoi-lien-quan-den-cac-hanh-vi-bat-nat/, truy cập ngày 25/7/2024.
2 https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=47827&CategoryId=0, truy cập ngày 25/7/2024.
3 https://www.warc.com/Welcome, truy cập ngày 25/7/2024.
4 Báo cáo ước tính dân số của Việt Nam đạt 99,19 triệu người vào tháng 01/2024.
5 Điều 2 đến Điều 6 Công ước Budapest 2001.
6 Điều 7 và Điều 8 Công ước Budapest 2001.
7 Điều 9 Công ước Budapest 2001.
8 Điều 10 Công ước Budapest 2001.


Tài liệu tham khảo:


1. Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng ban hành ngày 23/11/2001.

2. Bộ luật Hình sự Singapore năm 1871; sửa đổi, bổ sung lần gần nhất vào năm 2021.
3. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017.
4. Cao Anh Đức (2015), “Tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, thủ đoạn phạm tội và dự báo”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 16(296), trang 37 - 43.
5. Evon A. T., Auhood, A., Shaha, A. and Ghadah, A. (2019), “Cyber Security Crime and Punishment: Comparative Study of the Laws of Jordan, Kuwait, Qatar, Oman, and Saudi Arabia”, International Journal of Cyber Warfare and Terrorism, 8(3), pages 46 - 59.
6. Nguyễn Đức Hà (2018), “Kinh nghiệm truy tố tội phạm sử dụng công nghệ cao của Viện Công tố Singapore”, Tạp chí Kiểm sát,
https://kiemsat.vn/kinh-nghiem-truy-to-toi-pham-su-dung-cong-nghe-cao-cua-vien-cong-to-singapore-50807.html, truy cập ngày 25/7/2024.
7. Trần Đoàn Hạnh (2016), “Những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2+3 (306+307), trang 103 - 111.
8. Hồ Thế Hòe (2013), “Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/687, truy cập ngày 25/7/2024.
9. Hà Việt Hưng (2019), “Một số kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=690, truy cập ngày 25/7/2024.
10. Hoàng Việt Quỳnh (2016), “Một số trao đổi về tội phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát Nhân dân.
11. Đinh Thế Hưng và Lê Thị Hồng Xuân (2019), “Tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tòa án nhân dân.


Nguyễn Hoàng Nam
Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - tài chính khiến đồng nội tệ mất giá và niềm tin suy yếu, tiền mã hóa thường nổi lên như lựa chọn bảo toàn sức mua. Các cú sốc vĩ mô có thể đóng vai trò chất xúc tác thúc đẩy mở rộng hệ sinh thái tài sản mã hóa (hay tiền mã hóa).
Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Trong ngành Ngân hàng, sự hội tụ của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo không chỉ nâng cao hiệu quả vận hành mà còn củng cố quản trị rủi ro từ việc số hóa hồ sơ đến dự báo biến động thị trường. Bài viết sau đây tập trung vào ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong quản lý tài sản tại ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và triển khai tiền kỹ thuật số bán lẻ của ngân hàng trung ương

Kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và triển khai tiền kỹ thuật số bán lẻ của ngân hàng trung ương

Việc triển khai rCBDC cũng đặt ra nhiều thách thức, bao gồm nguy cơ phi trung gian hóa ngân hàng, yêu cầu về hạ tầng công nghệ an toàn và bảo mật cao, cũng như vấn đề niềm tin của công chúng. Bên cạnh đó, việc cho phép sử dụng rCBDC trong giao dịch xuyên biên giới có thể tiềm ẩn rủi ro đối với dòng vốn và ổn định tiền tệ quốc gia.
Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích

Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC), căn cước công dân (CCCD) là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng thực hiện chuyển đổi số hiệu quả đối với mỗi quốc gia. Việc tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích cho cả hệ thống quản lý nhà nước và dịch vụ tài chính - ngân hàng, từ cải thiện tính chính xác trong xác thực, đến nâng cao trải nghiệm khách hàng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế số.
Ứng dụng Blockchain trong quản lý và xác thực danh tính số tại ngân hàng

Ứng dụng Blockchain trong quản lý và xác thực danh tính số tại ngân hàng

Blockchain không chỉ là một công nghệ hỗ trợ mà còn có thể trở thành hạ tầng cốt lõi cho quá trình chuyển đổi số ngành tài chính - ngân hàng. Trong một thế giới mà giao dịch được thực hiện từ xa, khách hàng không cần đến quầy giao dịch và mọi dữ liệu đều có thể được xác minh tức thời, thì danh tính số là “chìa khóa” mở ra toàn bộ hệ sinh thái tài chính kỹ thuật số.
“Bẫy năng suất AI”: Khi công nghệ thông minh tạo ra áp lực vô tận

“Bẫy năng suất AI”: Khi công nghệ thông minh tạo ra áp lực vô tận

Bài viết này sẽ phân tích chi tiết “bẫy năng suất AI”, từ cơ chế hoạt động và các biểu hiện thực tế trong môi trường doanh nghiệp đến những tác động tâm lý và xã hội mà nó gây ra. Mục tiêu là làm rõ lý do tại sao một công nghệ được thiết kế để giảm tải công việc lại có thể tạo ra những áp lực mới đối với người lao động, và tại sao nhận thức về nghịch lý này lại quan trọng đối với tương lai công việc trong thời đại AI.
Bảo đảm an toàn khi cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng trong thời đại số

Bảo đảm an toàn khi cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng trong thời đại số

Trước xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ với những thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, khó lường, để bảo đảm an toàn trong cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số, bên cạnh sự nỗ lực của ngành Ngân hàng cần sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan trong công tác an ninh, an toàn thông tin và phòng, chống lừa đảo qua mạng; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên không gian mạng.
Trung tâm dữ liệu xanh: Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam

Trung tâm dữ liệu xanh: Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam

Trên thế giới, phát triển các trung tâm dữ liệu xanh đã và đang trở thành xu hướng chung, nhất là ở các nước phát triển; trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng từng bước định hình và khuyến khích phát triển năng lượng xanh cho các trung tâm dữ liệu của mình…
Xem thêm
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô