Một số khuyến nghị trong việc tăng cường các quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Công nghệ & ngân hàng số
Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng.
aa

Tóm tắt: Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng. Tội phạm mạng và công nghệ cao ngày càng trở nên tinh vi, đa dạng và gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và an ninh quốc gia. Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã xây dựng khung pháp lý cho tội phạm mạng nói riêng và tội phạm công nghệ cao nói chung. Tuy nhiên, những quy định hiện hành chưa thể bao quát hết các trường hợp tội phạm. Phạm vi bài viết này sẽ tập trung phân tích, đánh giá các quy định quốc tế trong Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng ban hành ngày 23/11/2001 (Công ước Budapest 2001) và những đổi mới trong hoạt động tư pháp của Singapore. Qua đó, đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tội phạm công nghệ cao thời gian tới.

Từ khóa: Công nghệ cao, pháp luật quốc tế, tội phạm.

SOME RECOMMENDATIONS TO STRENGTHEN LEGAL REGULATIONS ON HIGH-TECH CRIMES


Abstract: The explosion of digital technology and the rapid development of cyberspace have created new opportunities but also posed enormous challenges to cyber security. Cybercrime and high-tech crimes are becoming increasingly sophisticated, perse and causing serious consequences for the economy, society and national security. Currently, Vietnamese law has built a legal framework for cybercrime in particular and high-tech crime in general. However, current regulations cannot cover all criminal cases. In this article, the author focus on analyzing and evaluating international regulations in the Budapest Convention 2001 and innovations in Singapore's judicial activities. Thereby, providing some lessons for Vietnam in building and perfecting the law on high-tech crime in the coming time.

Keywords: High-tech crimes, international law, crimes.

1. Đặt vấn đề

Một thống kê của Microsoft cho thấy, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng bắt nạt trực tuyến ở mức báo động, với hơn một nửa số người dùng Internet thừa nhận đã từng tham gia hoặc chứng kiến các hành vi này
1. Trong kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV về tình hình tội phạm công nghệ cao, theo đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà - Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội với từ khóa “Bắt giữ tội phạm công nghệ cao” trên công cụ tìm kiếm Google đã thu về được khoảng 19.100.000 kết quả trong vòng 0,39 giây2. Thực tế cho thấy, những đối tượng là người nước ngoài nhập cảnh vào nước ta sử dụng những thiết bị công nghệ cao để lừa đảo, tống tiền người dân hoặc có hành vi làm giả thẻ tín dụng… nhằm mục đích chiếm đoạt tài khoản ngân hàng xảy ra tại nhiều địa phương trong thời gian qua. Chính vì vậy, nguy cơ mất an toàn thông tin có thể xuất hiện nhiều hơn, không những gây rủi ro trong việc ứng dụng công nghệ cao vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội mà còn ảnh hưởng đến bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia (Hà Việt Hưng, 2019).

Mặt khác, nhu cầu sử dụng Internet ở nước ta là rất lớn. Khảo sát của Facebook và WARC
3 cho thấy, người dùng Internet ở Việt Nam dành nhiều thời gian cho Internet hơn sau khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Theo nghiên cứu mới nhất của Datareportal và Wearesocial vào đầu năm 2024, hiện Việt Nam có khoảng 78,44 triệu người sử dụng Internet và 72,7 triệu người sử dụng mạng xã hội vào tháng 01/2024, tương đương với 73,3% tổng dân số4; ngoài ra, số lượng thuê bao di động tại Việt Nam đạt 168,5 triệu kết nối, tương đương với 169,8% tổng dân số. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh chóng, các quốc gia trong đó có Việt Nam đang dần hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông để thích ứng với sự đổi mới của thị trường. Bên cạnh việc phát triển của công nghệ cao thì vấn đề tội phạm trong lĩnh vực này cũng gia tăng đáng kể (Hồ Thế Hòe, 2013). Nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao.


Việc bùng nổ của công nghệ số và sự phát triển nhanh chóng của không gian mạng đã tạo ra những cơ hội mới nhưng cũng đồng thời đặt ra những thách thức to lớn về an ninh mạng (Nguồn ảnh: Internet)

Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây có đề cập đến định nghĩa và hình phạt đối với tội phạm công nghệ cao. Một trong những nghiên cứu tiêu biểu của Evon, A. và cộng sự (2019) đề cập đến những định nghĩa học thuật về tội phạm mạng và quy định trừng phạt. Nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau trong cách định nghĩa từ quan điểm của mỗi quốc gia. Bài nghiên cứu thông qua quy định pháp luật của 5 quốc gia khác nhau liên quan đến tội phạm mạng, bao gồm: Jordan, Oman, Kuwait, Qatar và Saudi Arabia. Ở trong nước, nghiên cứu của Cao Anh Đức (2015) đi sâu tìm hiểu tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, các thủ đoạn phạm tội và dự báo về tình hình tội phạm có sử dụng công nghệ cao. Hay nghiên cứu của Trần Đoàn Hạnh (2016) phân tích hiện trạng, đánh giá những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao. Hoặc nghiên cứu của Hoàng Việt Quỳnh (2016) tập trung trao đổi về tội phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Nhìn chung, các nghiên cứu đã phần nào khái quát bức tranh về tội phạm công nghệ cao và mang lại góc nhìn tổng quan hơn. Tội phạm công nghệ cao không chỉ là vấn đề của cá nhân mà còn là thách thức lớn đối với xã hội. Mục tiêu của nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích các quy định trong Công ước Budapest 2001, sự đổi mới của Bộ luật Hình sự Singapore và việc truy tố tội phạm công nghệ cao Viện Công tố nước này về tội phạm công nghệ cao nhằm đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

2. Quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao tại Việt Nam

Xét về khái niệm “công nghệ cao”, căn cứ theo khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có”.

Xét về khái niệm “tội phạm công nghệ cao”, dựa theo khoản 7 Điều 2 Luật An ninh mạng 2018 thì: “Tội phạm mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự”. Theo đó, từ Điều 285 đến Điều 294 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự) quy định liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì tội phạm công nghệ cao có thể được xem là các hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa ở những lĩnh vực khác, tiêu biểu như tài chính - ngân hàng, điện tử - viễn thông (Đinh Thế Hưng và Lê Thị Hồng Xuân, 2019).

Tóm lại, có thể hiểu, tội phạm công nghệ cao là những tội phạm liên quan đến các hành vi phạm pháp được thực hiện thông qua hoặc liên quan đến máy tính, mạng Internet và các công nghệ số. Chúng bao gồm cả những hình thức tội phạm mới nổi lên cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và cả những tội phạm truyền thống được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật số.

3. Kinh nghiệm quốc tế trong quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Công ước Budapest 2001 phân chia tội phạm mạng thành 4 nhóm, bao gồm: (1) Các tội phạm chống lại tính bí mật, toàn vẹn và sẵn có của dữ liệu máy tính và hệ thống máy tính
5; (2) Các tội phạm liên quan đến máy tính6; (3) Các tội phạm liên quan đến nội dung7; (4) Các tội phạm xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan8. Bên cạnh đó, Công ước Budapest 2001 cũng quy định cụ thể về trách nhiệm bổ trợ và biện pháp chế tài; trong đó, tại khoản 1, khoản 2 Điều 12 quy định về trách nhiệm của pháp nhân như sau:

“1. Các quốc gia thành viên phải ban hành luật và các biện pháp cần thiết khác để đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với các hành vi phạm tội quy định trong công ước này, được bất cứ cá nhân nào thực hiện vì lợi ích của pháp nhân, nếu cá nhân ấy là đại diện hoặc một phần trong cơ quan của pháp nhân và nắm vị trí lãnh đạo trên cơ sở.

a. Thẩm quyền đại diện cho pháp nhân.

b. Thẩm quyền ra quyết định nhân danh pháp nhân.

c. Thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát trong nội bộ pháp nhân.

2. Ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện tốt việc giám sát hoặc kiểm soát của cá nhân đề cập trong khoản 1 làm cho tội phạm quy định trong công ước này được thực hiện bởi cá nhân hành xử theo thẩm quyền của mình vì lợi ích của pháp nhân”. Theo quy định này thì việc pháp nhân có hành vi vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm với hành vi phạm tội của mình. Biện pháp chế tài cụ thể được quy định tại khoản 2 Điều 13 của Công ước Budapest 2001: “Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu trách nhiệm phù hợp với các quy định tại Điều 12 và bị áp dụng các biện pháp chế tài hình sự hoặc phi hình sự mang tính tương xứng, hiệu quả và có tính răn đe hoặc các biện pháp khác, bao gồm cả chế tài phạt tiền”.

Nếu Công ước Budapest 2001 đề cập những quy định pháp luật mang tính khuyến khích chấp hành thì kinh nghiệm truy tố tội phạm công nghệ cao của Viện Công tố Singapore sẽ tập trung vào chức năng truy tố tội phạm, trong đó có 2 điểm chính: Hệ thống pháp luật và sự chuyên môn hóa. Ở nhiều nước, truy tố thuộc thẩm quyền của Viện Công tố. Tuy nhiên, tùy vào cách tổ chức của mỗi nước mà Viện Công tố được tổ chức ở Bộ Tư pháp hoặc ở Tòa án. Bộ luật Hình sự Singapore đã được sửa đổi rất nhiều lần nhằm đảm bảo các loại tội phạm trong việc giả mạo giấy tờ, tài liệu, đặc biệt là các tài liệu điện tử hay các phương thức giả mạo sử dụng công nghệ cao, bên cạnh đó là sự thừa nhận các thông tin có được từ hệ thống máy tính là chứng cứ. Ngoài ra, đối với các hành vi quấy rối trước đây, hành vi phạm tội quấy rối người khác chỉ áp dụng cho các hành vi được thực hiện trong thế giới thực, nhưng theo quy định của luật mới, việc sử dụng các phương tiện truyền thông như Internet, mạng xã hội… cùng với sự phát triển của các phương thức giao tiếp trực tuyến khác đã mở rộng phạm vi của hành vi này trên không gian mạng. Viện Công tố Singapore cũng chủ động xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các đối tác trong và ngoài nước như: Các lượng Cảnh sát, Viện kiểm sát, Viện Công tố trong và ngoài khối ASEAN; Bộ Tư pháp Hoa Kỳ; lực lượng Cảnh sát hình sự quốc tế Interpol… trong công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm sử dụng công nghệ cao (Nguyễn Đức Hà, 2018). Ở một khía cạnh khác, Viện Công tố Singapore luôn tìm hiểu, phát hiện những công tố viên có tố chất, đặc biệt đam mê, am hiểu trong lĩnh vực công nghệ, từ đó xây dựng đội ngũ công tố viên phù hợp cho việc xử lý loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, dần hoàn thiện nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành tư pháp của Singapore.

4. Một số khuyến nghị cho Việt Nam nhằm tăng cường quy định pháp luật về tội phạm công nghệ cao

Quy định pháp luật của Việt Nam về tội phạm công nghệ cao đã có nhiều tiến bộ tích cực trong nhìn nhận rủi ro và cải thiện từng ngày. Tuy nhiên, trước tình hình hội nhập thông tin toàn cầu như hiện nay, tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng đang ngày tăng, ở cả số lượng và tính chất nguy hiểm. Để đáp ứng yêu cầu phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao, Việt Nam cần tăng cường xây dựng hệ thống quy định pháp luật vững chắc hơn nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Một là, dựa trên tinh thần của Công ước Budapest 2001, pháp luật Việt Nam cần quy định rõ ràng trách nhiệm của pháp nhân trong việc giám sát và kiểm soát hành vi của nhân viên. Cụ thể như sau: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu không thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao, ngay cả khi những hành vi này được thực hiện trong quá trình công tác và vì lợi ích của pháp nhân. Đồng thời, pháp nhân có nghĩa vụ hợp tác với cơ quan chức năng trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc”.

Hai là, việc xác định rõ loại hình và mức độ hình phạt đối với tội phạm công nghệ cao, đặc biệt là đối với người nước ngoài, là một yêu cầu cấp bách nhằm đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả trong thực thi pháp luật và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật xuyên quốc gia. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần có những quy định cụ thể, chi tiết hơn trong cả luật hình sự và luật hành chính nhằm điều chỉnh phù hợp các tội phạm (hình sự) và hình phạt (hành chính và hình sự) về tội phạm công nghệ cao để tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và tạo ra lỗ hổng pháp lý.

Ba là, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực ngày càng tiệm cận hơn với các nước phát triển trên thế giới. Cán bộ các bộ, ngành cần không ngừng chủ động nâng cao trình độ và năng lực thực thi, đặc biệt là về pháp luật quốc tế, vận dụng và triển khai các hiệp ước, công ước chung để có thể tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong thời kỳ hội nhập. Mặt khác, Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành cũng cần đầu tư mạnh mẽ vào việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trang bị cho họ những kiến thức và kỹ năng cần thiết để có thể ứng dụng công nghệ vào công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án liên quan đến công nghệ.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống tội phạm công nghệ cao. Bên cạnh các quy định đã có hiện tại, các cơ quan cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các chính sách thúc đẩy kết nối giữa các cơ quan đối tác trong và ngoài nước, đồng thời khuyến khích nâng cao nhận thức của người dân về các nguy cơ của tội phạm mạng, đầu tư vào công nghệ để phát hiện và ngăn chặn tội phạm tại Việt Nam nói riêng và xây dựng một mặt trận chung chống lại tội phạm công nghệ cao trên toàn cầu nói chung.

5. Kết luận

Sự bùng nổ của không gian mạng và sự phát triển thần tốc của Internet đã tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tội phạm công nghệ phát sinh và ngày càng tinh vi. Trước thực tế này, việc hoàn thiện khung pháp lý về tội phạm công nghệ cao trở thành một yêu cầu cấp bách. Ở Việt Nam, một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong Bộ luật Hình sự. Do đó, việc cập nhật và bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến tội phạm công nghệ cao vào Bộ luật Hình sự nói riêng và các luật liên quan đến công nghệ cao nói chung là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng kịp thời những diễn biến phức tạp của tình hình công nghệ và an ninh mạng quốc gia.

1 https://news.microsoft.com/vi-vn/2020/09/30/nghien-cuu-cua-microsoft-cho-thay-cu-10-nguoi-dung-internet-tai-viet-nam-thi-co-hon-5-nguoi-lien-quan-den-cac-hanh-vi-bat-nat/, truy cập ngày 25/7/2024.
2 https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=47827&CategoryId=0, truy cập ngày 25/7/2024.
3 https://www.warc.com/Welcome, truy cập ngày 25/7/2024.
4 Báo cáo ước tính dân số của Việt Nam đạt 99,19 triệu người vào tháng 01/2024.
5 Điều 2 đến Điều 6 Công ước Budapest 2001.
6 Điều 7 và Điều 8 Công ước Budapest 2001.
7 Điều 9 Công ước Budapest 2001.
8 Điều 10 Công ước Budapest 2001.


Tài liệu tham khảo:


1. Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng ban hành ngày 23/11/2001.

2. Bộ luật Hình sự Singapore năm 1871; sửa đổi, bổ sung lần gần nhất vào năm 2021.
3. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017.
4. Cao Anh Đức (2015), “Tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, thủ đoạn phạm tội và dự báo”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 16(296), trang 37 - 43.
5. Evon A. T., Auhood, A., Shaha, A. and Ghadah, A. (2019), “Cyber Security Crime and Punishment: Comparative Study of the Laws of Jordan, Kuwait, Qatar, Oman, and Saudi Arabia”, International Journal of Cyber Warfare and Terrorism, 8(3), pages 46 - 59.
6. Nguyễn Đức Hà (2018), “Kinh nghiệm truy tố tội phạm sử dụng công nghệ cao của Viện Công tố Singapore”, Tạp chí Kiểm sát,
https://kiemsat.vn/kinh-nghiem-truy-to-toi-pham-su-dung-cong-nghe-cao-cua-vien-cong-to-singapore-50807.html, truy cập ngày 25/7/2024.
7. Trần Đoàn Hạnh (2016), “Những vướng mắc trong đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về tội phạm công nghệ cao”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2+3 (306+307), trang 103 - 111.
8. Hồ Thế Hòe (2013), “Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/687, truy cập ngày 25/7/2024.
9. Hà Việt Hưng (2019), “Một số kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=690, truy cập ngày 25/7/2024.
10. Hoàng Việt Quỳnh (2016), “Một số trao đổi về tội phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát Nhân dân.
11. Đinh Thế Hưng và Lê Thị Hồng Xuân (2019), “Tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tòa án nhân dân.


Nguyễn Hoàng Nam
Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tác động của chuyển đổi số đến kinh doanh bền vững tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Tác động của chuyển đổi số đến kinh doanh bền vững tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Chuyển đổi số không chỉ dừng lại ở việc cải tiến công nghệ mà còn là đòn bẩy chiến lược giúp thúc đẩy phát triển bền vững doanh nghiệp. Vấn đề này được xem như một mục tiêu được các ngân hàng quan tâm hàng đầu. Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá vai trò trung gian của quản trị doanh nghiệp, hiệu suất cảm nhận và hiệu quả tài chính trong mối quan hệ giữa chuyển đổi số đối với kinh doanh bền vững tại các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam...
Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Bài viết phân tích toàn diện những ảnh hưởng sâu rộng của Blockchain tới từng khâu trong quy trình kiểm toán, từ thu thập dữ liệu thời gian thực, xác minh qua hợp đồng thông minh, đến phát hiện gian lận nhờ tính bất biến và truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, việc ứng dụng thực tế còn đối mặt với nhiều rào cản, từ chi phí đầu tư, thiếu nhân lực chuyên môn đến hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Do đó, để hiện thực hóa tiềm năng của Blockchain, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý, tổ chức đào tạo, doanh nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp trong việc xây dựng khung pháp lý, nâng cao năng lực, và phát triển các mô hình kiểm toán thời gian thực dựa trên Blockchain.
Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Chiều 20/8/2025, tại Hà Nội, Trường Đại học Đại Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Quản lý nhà nước đối với sự phát triển Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam”. Hội thảo đã tạo diễn đàn trao đổi học thuật cũng như thực tiễn giữa các nhà khoa học, chuyên gia trong nước, quốc tế, cùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý, định hình khung khổ pháp lý, cũng như đề xuất giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững của Fintech tại Việt Nam.
Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số và từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách hướng tới nền tài chính toàn diện; trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ hỗ trợ truyền thông chính sách hiệu quả, chính xác hơn mà còn giúp tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí, nâng cao trải nghiệm khách hàng - từ cá nhân hóa thông điệp, phân tích dữ liệu lớn để nắm bắt nhu cầu, đến phát hiện và xử lý thông tin sai lệch trên môi trường số. Bên cạnh cơ hội, AI cũng đặt ra không ít thách thức. Chính vì vậy, Thời báo Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Ứng dụng AI trong truyền thông chính sách và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng” diễn ra ngày 20/8/2025 tại Hà Nội.
Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Xem thêm
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng