Một số kết quả ứng dụng Công nghệ thông tin năm 2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Công nghệ & ngân hàng số
Năm 2020 là một năm đặc biệt với những tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu. Nhưng trong những thách thức phức tạp của đại dịch, cũng đã xuất hiện những cơ hội mới cho lĩnh vực công n...
aa

Năm 2020 là một năm đặc biệt với những tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu. Nhưng trong những thách thức phức tạp của đại dịch, cũng đã xuất hiện những cơ hội mới cho lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT) phát triển, khẳng định được vai trò và sứ mệnh của mình trong việc duy trì, thúc đẩy kinh tế - xã hội của các quốc gia tiếp tục được duy trì, phát triển trong điều kiện bình thường mới.


Trong tình hình như vậy, lĩnh vực CNTT của ngành Ngân hàng đã được Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quan tâm, chỉ đạo triển khai đồng bộ, quyết liệt với nhiều giải pháp và đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng, góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành của NHNN theo mô hình Chính phủ điện tử và thúc đẩy chuyển đổi số, hiện đại hóa hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và chủ động hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế.

Một số kết quả chính về ứng dụng CNTT trong năm 2020 của NHNN như sau:

1. Ban hành các chính sách, văn bản chỉ đạo về CNTT

Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên ngành về CNTT trong ngành Ngân hàng, trong năm 2020, NHNN đã nghiên cứu, ban hành nhiều văn bản định hướng, điều chỉnh các hoạt động CNTT theo chỉ đạo của Chính phủ, hỗ trợ triển khai Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn; từng bước nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) vào các hoạt động của NHNN và TCTD, tạo nền tảng công nghệ cho việc chuyển đổi sang mô hình Chính phủ điện tử tại NHNN và mô hình ngân hàng số của các TCTD.

Trong năm 2020, NHNN đã ban hành một số văn bản tiêu biểu như: Chiến lược phát triển CNTT ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Kế hoạch ứng dụng CNTT của NHNN năm 2020; Thông tư 09/TT-NHNN ngày 21/10/2020 của NHNN sửa đổi quy định về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng; Thông tư 10/2020/TT-NHNN ngày 02/11/2020 của NHNN sửa đổi quy định về việc quản lý, sử dụng chữ ký số, chứng thư số và dịch vụ chứng thực chữ ký số của NHNN... Ngoài ra, NHNN còn ban hành nhiều thông tư, quyết định và công văn hướng dẫn khác trong lĩnh vực CNTT, hình thành nên khung khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động CNTT ngành Ngân hàng.

2. Đảm bảo hoạt động trên nền tảng CNTT trong đại dịch Covid - 19

Năm 2020, tình hình đại dịch Covid - 19 diễn biến phức tạp, đe dọa làm gián đoạn hoạt động thường nhật và việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Trên cơ sở đánh giá đúng các nguy cơ, rủi ro có thể phát sinh và mục tiêu đảm bảo duy trì hoạt động bình thường của ngành Ngân hàng trong mọi tình huống, NHNN đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn Ngành chủ động xây dựng, triển khai phương án ứng phó, đảm bảo duy trì các hoạt động, nghiệp vụ trên nền tảng CNTT và thúc đẩy triển khai các hoạt động, dịch vụ mới, an toàn trên không gian mạng như: (i) Hướng dẫn các đơn vị NHNN và các TCTD xây dựng, triển khai phương án đảm bảo hoạt động liên tục của hệ thống CNTT và cung cấp dịch vụ ngân hàng trong điều kiện dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp; (ii) Triển khai hệ thống họp trực tuyến trên các thiết bị di động, xử lý văn bản qua mạng Internet để không làm gián đoạn các hoạt động bình thường của ngành Ngân hàng trong điều kiện cách ly xã hội; (iii) Sửa đổi các phần mềm nghiệp vụ để triển khai các văn bản chỉ đạo của Thống đốc NHNN về miễn, giảm lãi, phí cho các tổ chức, cá nhân chịu nhiều tác động của dịch bệnh Covid-19.

Nhờ những chỉ đạo cụ thể và kịp thời của NHNN, các hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động nội ngành và các dịch vụ ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp, người dân vẫn được duy trì hoạt động liên tục, thông suốt và an toàn, kể cả trong những thời điểm cả nước phải thực hiện biện pháp cách ly xã hội theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

3. Nâng cấp hệ thống thanh toán của quốc gia

Thực hiện nhiệm vụ quản lý, vận hành hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng quốc gia (TTĐTLNH) theo Luật NHNN, từ cuối năm 1999, NHNN đã đưa vào vận hành hệ thống TTĐTLNH từ nguồn vốn do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Đến thời điểm hiện nay, số lượng và giá trị thanh toán qua Hệ thống này đã tăng khoảng 20 lần về số lượng và 10 lần về giá trị, với bình quân khoảng 500.000 - 600.000 lệnh/ngày và giá trị gần 400.000 - 500.000 tỷ đồng/ngày, tương đương 17 - 20 tỷ USD/ngày.

Để tăng cường vai trò hoạt động của hệ thống thanh toán NHNN, năm 2020, NHNN đã hoàn thành nâng cấp hệ thống TTĐTLNH cả về mô hình tổ chức, cơ chế nghiệp vụ và công nghệ. Theo đó, toàn bộ hoạt động của 06 trung tâm xử lý thanh toán cấp khu vực và 63 trung tâm xử lý thanh toán cấp tỉnh được tập trung về Trung tâm Xử lý quốc gia đặt tại Ngân hàng Trung ương (NHTW); bổ sung các dịch vụ thanh toán ngoại tệ USD, EUR và dịch vụ xử lý quyết toán theo lô; quyết toán trái phiếu Chính phủ.

Về kỹ thuật, hệ thống TTĐTLNH được nâng cấp tổng thể về máy chủ, tủ đĩa, đường truyền thông, phần mềm và áp dụng các công nghệ mới cho xử lý quyết toán ròng đã giúp cho hệ thống nâng cao tổng thể hiệu năng xử lý, giải quyết dứt điểm tình trạng quá tải do số lượng lệnh thanh toán đã vượt nhiều lần thiết kế khi đưa vào vận hành trước đây.

4. Hoàn thành tập trung hóa hạ tầng CNTT và hệ thống thông tin nghiệp vụ

Năm 2020, với việc chuyển đổi thành công mô hình tập trung cho hệ thống thông tin cuối cùng là hệ thống TTĐTLNH, NHNN đã hoàn thành tập trung hóa toàn bộ trang thiết bị CNTT như máy chủ, tủ đĩa, cơ sở dữ liệu... và các hệ thống thông tin nghiệp vụ về một điểm duy nhất đặt tại Trung tâm dữ liệu của NHTW.

Mô hình hệ thống thông tin mới cho phép xử lý nghiệp vụ, dữ liệu tập trung, theo thời gian thực và có giám sát hàng ngày của các đơn vị quản lý đã hỗ trợ hiệu quả công tác quản lý, điều hành hàng ngày của NHNN, làm tốt hơn việc cung cấp dịch vụ cho các TCTD và tiết kiệm đáng kể chi phí cho việc trang bị, bảo trì, vận hành các trang thiết bị CNTT của mô hình phân tán. Tính đến nay, các thành phần chính của hạ tầng CNTT NHNN bao gồm:

Thứ nhất, trung tâm dữ liệu (TTDL) chính được thiết kế và xây dựng theo tiêu chuẩn Tier III - TIA 942 đưa vào vận hành từ năm 2017, là TTDL hiện đại nhất trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, cho phép thực hiện bảo trì, bảo dưỡng hạ tầng song song, trong khi các ứng dụng khai thác tại đó vẫn hoạt động bình thường. TTDL chính có khả năng sẵn sàng cao đến 99,982% và tổng số thời gian gián đoạn mỗi năm không quá 1,6 giờ.

Thứ hai, TTDL dự phòng tại Sơn Tây (Hà Nội), cách TTDL chính 30km, đạt tiêu chuẩn Tier II, hoạt động song song và sẵn sàng thay thế khi TTDL chính gặp sự cố. Năm 2020, NHNN đã hoàn thành thi công xây dựng mới tòa nhà cho TTDL dự phòng và trong những năm tới sẽ tiếp tục đầu tư hạ tầng và các thiết bị CNTT cho TTDL dự phòng mới theo tiêu chuẩn Tier III - TIA 942.

Các TTDL chính và TTDL dự phòng được vận hành và khai thác có hiệu quả là điều kiện quan trọng để NHNN đồng bộ dữ liệu theo thời gian thực giữa hai TTDL và chuyển đổi hoạt động các hệ thống thông tin nghiệp vụ theo định kỳ giữa TTDL chính và dự phòng, đảm bảo an toàn và hoạt động liên tục của các hệ thống thông tin NHNN trong mọi tình huống.

Thứ ba, theo định hướng quản lý tập trung tài nguyên CNTT, NHNN cũng đã thiết lập và vận hành thành công mô hình điện toán đám mây riêng (Private Cloud) cung cấp dịch vụ tài nguyên CNTT dùng chung (Paas - Platform as a Service) giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên tại TTDL chính và TTDL dự phòng, tiết kiệm nguồn lực, giảm thiểu thời gian cho việc vận hành, cấp phát tài nguyên CNTT.

Thứ tư, hệ thống mạng của NHNN kết nối từ TTDL đến các đơn vị NHNN trên toàn quốc thông qua mạng diện rộng (WAN) với tốc độ từ 10 Mbps đến 50 Mbps; 100% các đơn vị trực thuộc NHNN có mạng cục bộ (LAN) tốc độ 100/1000 Mbps; kết nối giữa TTDL chính và TTDL dự phòng sử dụng hai đường cáp quang có tổng băng thông 70 Gbps. Ngoài ra, giữa các trụ sở tại NHTW được kết nối với TTDL thông qua đường truyền cáp quang có tốc độ 01Gbps.

Thứ năm, hệ thống Internet của NHNN được quy hoạch theo 3 hệ thống tập trung chính: (i) Hệ thống Internet cho các ứng dụng nghiệp vụ của NHNN như: Hệ thống Cổng thông tin điện tử NHNN, hệ thống báo cáo mới, hệ thống dịch vụ công, hệ thống thư điện tử NHNN; (ii) Hệ thống Internet phục vụ các hoạt động khác của NHNN; (iii) Hệ thống Internet Wifi phục vụ truy cập của người dùng cá nhân và được thiết kế độc lập với hệ thống mạng NHNN để đảm bảo an ninh, an toàn trong quản lý, sử dụng.

Về chính sách, NHNN thực hiện quản lý Internet tập trung theo “Whitelist” đã giúp băng thông sử dụng của cán bộ NHNN dành cho mạng xã hội, phim, ca nhạc giảm tỷ lệ rõ rệt (mạng xã hội giảm tỷ lệ 30 lần, video/ca nhạc giảm 5 lần), thay vào đó là việc truy cập các nội dung dành cho giáo dục, Chính phủ, tin tức tài chính tăng lên trung bình gấp khoảng 3 - 4 lần so với trước đây.

Thứ sáu, hạ tầng chứng thực điện tử (chữ ký số và dịch vụ chứng thực) đã được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép cung cấp dịch vụ chữ ký số chuyên dùng. Đến nay có khoảng 8.000 chứng thư số được cấp, sử dụng cho các hệ thống ứng dụng nghiệp vụ nội bộ NHNN và cung cấp dịch vụ cho các tổ chức trong ngành Ngân hàng như hệ thống TTĐTLNH, hệ thống đấu thầu và nghiệp vụ thị trường mở, hệ thống báo cáo thống kê, hệ thống dịch vụ công của NHNN, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn cho các giao dịch điện tử của NHNN và tính toàn vẹn của dữ liệu trong các hoạt động nghiệp vụ.

5. Các hệ thống thông tin nghiệp vụ được vận hành thông suốt, an toàn

Một là, hệ thống TTĐTLNH: Là hệ thống thanh toán xương sống của quốc gia, thực hiện vai trò thanh toán và quyết toán giữa các đơn vị NHNN, TCTD trên phạm vi toàn quốc. Hệ thống hàng ngày cung cấp dịch vụ cho hơn 300 đơn vị thành viên và đã cung cấp phương tiện thanh toán nhanh, hiệu quả, hỗ trợ công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và tạo điều kiện cho việc tập trung hóa, sử dụng hiệu quả vốn của các TCTD.

Hai là, hệ thống ngân hàng lõi, quản lý kế toán, tài chính và ngân sách: Là một trong những hệ thống thông tin quan trọng của NHNN, bao gồm các thành phần chính sau:

- Hệ thống ngân hàng lõi (Core banking): Quản lý tập trung toàn bộ các tài khoản của các đơn vị NHNN và tài khoản của TCTD, Kho bạc Nhà nước (KBNN) tại NHNN; theo dõi, xử lý các nghiệp vụ kinh tế, tài chính cơ bản của NHNN. Hệ thống ngân hàng lõi kết nối giao dịch với hệ thống TTĐTLNH, thanh toán giao dịch trái phiếu Chính phủ để hỗ trợ thanh, quyết toán qua hệ thống tài khoản tập trung...

- Hệ thống quản lý kế toán, tài chính, tài sản và ngân sách (ERP): Thực hiện quản lý các nghiệp vụ nội bộ của NHNN bao gồm quản lý công nợ phải thu/phải trả, quản lý tài sản, công cụ kế toán, sổ cái, quản lý ngân sách...

- Hệ thống nghiệp vụ thị trường tiền tệ (AOM/CSD): Bao gồm các công cụ hỗ trợ cho điều hành chính sách tiền tệ của NHNN như quản lý cầm cố giấy tờ có giá; thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở, đấu thầu tín phiếu NHNN, trái phiếu KBNN, trái phiếu đặc biệt VAMC, quản lý dự trữ bắt buộc, đấu thầu vàng...

Ba là, hệ thống báo cáo và kho dữ liệu tập trung: Là kho dữ liệu data warehouse duy nhất của NHNN, thu thập dữ liệu báo cáo hàng ngày và theo kỳ hạn từ các tổ chức trong toàn Ngành trên phạm vi toàn quốc, bao gồm gần 1200 quỹ tín dụng nhân dân. Hệ thống là nguồn cung cấp thông tin chính cho điều hành của NHNN và thanh tra, giám sát đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.

Bốn là, hệ thống quản lý và phát hành kho quỹ (CMO): Là hệ thống quản lý, xử lý tập trung, tự động hóa các nghiệp vụ tác nghiệp kho quỹ của các đơn vị NHNN trên toàn quốc; cung cấp công cụ dự báo nhu cầu tiền mặt, quản lý, tổ chức điều hoà lưu thông tiền mặt, lập kế hoạch tối ưu công tác phân phối tiền trong toàn bộ hệ thống kho quỹ NHNN; điều hành, hỗ trợ hoạch định và ra quyết định trong công tác phát hành kho quỹ của NHNN.

Năm là, hệ thống quản lý văn bản và điều hành tác nghiệp của NHNN (Edoc): Quản lý, gửi, nhận và xử lý văn bản, tài liệu trong nội bộ NHNN; thực hiện điều hành, phân công và theo dõi xử lý công việc. Năm 2020, hệ thống được nâng cấp và thêm các tính năng mới như: (i) Bổ sung dịch vụ trên thiết bị di động từ Internet (qua VPN); (ii) Tích hợp chứng chỉ số của Ban Cơ yếu Chính phủ cho chữ ký điện tử của đơn vị và lãnh đạo đơn vị; (iii) Gửi nhận liên thông văn bản với các đơn vị ngoài NHNN (các đơn vị được cấp mã định danh trên trục liên thông văn bản quốc gia).

Hệ thống Edoc đã tạo ra những thay đổi lớn trong công tác xử lý văn bản và điều hành của NHNN, rút ngắn thời gian gửi, nhận văn bản, quản lý, giám sát tiến độ xử lý công việc; tiết kiệm chi phí in ấn, sao chụp, từ đó góp phần tăng hiệu quả quản lý, điều hành của NHNN.

Sáu là, hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT: Hỗ trợ nghiệp vụ thanh toán quốc tế, mua bán trái phiếu, gửi tiền phục vụ cho công tác quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN. Năm 2020, hệ thống này được thường xuyên cập nhật các bản vá an ninh bảo mật đáp ứng các yêu cầu đối với hệ thống CNTT cấp độ 5 theo khoản 3 Điều 11 Nghị định 85/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về đảm bảo an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ và các yêu cầu của chương trình an ninh khách hàng (Customer Security Program - CSP) của tổ chức SWIFT.

Bảy là, hệ thống thông tin tín dụng: Thực hiện thu thập, xử lý, tổng hợp, phân tích, tạo lập và cung cấp thông tin tín dụng phục vụ quản lý hoạt động nội bộ và cung cấp công cụ cho các TCTD, các đơn vị của NHNN, cá nhân, tổ chức cung cấp số liệu và khai thác các sản phẩm thông tin tín dụng, hỗ trợ ngăn ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh; giúp khách hàng vay tiếp cận được nguồn vốn tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, hệ thống còn cung cấp thông tin làm cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Ban lãnh đạo NHNN.

Tám là, hệ thống thông tin thị trường liên ngân hàng (Deal Tracker): Thu thập tức thời thông tin về giao dịch cho vay, gửi tiền giữa các TCTD (giao dịch qua hệ thống của Reuters) giúp NHNN theo sát diễn biến thị trường để thực hiện các nghiệp vụ thị trường tiền tệ, đưa ra những biện pháp để quản lý và phát triển thị trường hiệu quả. Riêng năm 2020, Hệ thống này thực hiện thu thập và chiết xuất số liệu giao dịch của 77 TCTD trên thị trường, với khoảng 300 - 350 giao dịch một ngày. Thời gian thu thập dữ liệu linh động, có thể thực hiện bất cứ lúc nào trong ngày khi có nhu cầu.

Chín là, hệ thống quản lý công tác kiểm toán nội bộ (TeamMate): Hỗ trợ nghiệp vụ kiểm toán nội bộ của NHNN như quản lý các dự án kiểm toán; lưu trữ, theo dõi và xử lý các kiến nghị góp phần đảm bảo cho NHNN hoạt động an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật.

Mười là, hệ thống thư điện tử NHNN: Trao đổi thông tin, tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ. Hiện nay, hệ thống có hơn 6.000 hộp thư đang hoạt động, với khoảng 50.000 email gửi nhận hàng ngày. Trong năm 2020, NHNN đã thực hiện bổ sung tài nguyên lưu trữ cho hệ thống thư điện tử nhằm đảm bảo hệ thống hoạt động an toàn, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dùng; đồng thời triển khai hệ thống phòng chống thư rác nhằm chặn, lọc thư rác, tăng cường bảo vệ cho hệ thống thư điện tử.

6. Xây dựng mô hình Chính phủ điện tử tại NHNN

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về xây dựng mô hình Chính phủ điện tử cấp bộ và liên thông với Hệ thống Chính phủ điện tử Quốc gia, năm 2020, NHNN đã nghiên cứu, triển khai nghiêm túc các kế hoạch công tác của Chính phủ như: Ban hành Khung kiến trúc Chính phủ điện tử phiên bản 2.0 của NHNN phù hợp với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam 2.0; nâng cấp Cổng thông tin điện tử của NHNN, triển khai liên thông với hệ thống văn bản Chính phủ, liên thông hồ sơ hành chính công với Cổng Dịch vụ công Quốc gia, liên thông hệ thống báo cáo NHNN với hệ thống thông tin báo cáo của Chính phủ; xây dựng danh mục các cơ sở dữ liệu NHNN quản lý theo Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước; triển khai hệ thống thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính của NHNN về cơ chế một cửa theo Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025....

7. Công tác an ninh mạng được đảm bảo

Năm 2020, tình hình an ninh mạng tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Theo báo cáo của Vina Aspire, tính từ 01/10/2020 đến hết năm 2020, số cuộc tấn công mạng trên toàn cầu tăng 52%; nhóm lĩnh vực bị tấn công nhiều nhất là tài chính (34%) so với dịch vụ (23%), viễn thông (19%), sản xuất (15%) và bảo hiểm (7%). Việt Nam đứng thứ 7/10 các quốc gia bị tấn công mạng nhiều nhất thế giới Quý IV/2020. Trong nước, theo số liệu từ Bộ Công an, đã có 2.600 cổng thông tin, tên miền “.vn” bị tấn công trong năm 2020. Riêng trong Quý III/2020, Bộ Công an đã phát hiện 937 trang web, cổng thông tin điện tử của Việt Nam bị tin tặc tấn công.

Nắm bắt và theo dõi sát sao tình hình an ninh mạng, NHNN đã chỉ đạo toàn Ngành triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ ban hành chính sách, ứng dụng các công nghệ mới đến diễn tập, đào tạo nhân lực chuyên gia... với mục tiêu chuyển đổi nhanh hoạt động an ninh CNTT ngành Ngân hàng từ phương thức "phòng ngự" truyền thống sang "chủ động " giám sát, xử lý sớm các rủi ro, nguy cơ mất an toàn mạng.

Một số hoạt động cụ thể trong lĩnh vực an ninh CNTT như: 05 thông tư thuộc lĩnh vực CNTT được NHNN ban hành, sửa đổi, bổ sung năm 2020, thì có đến 03 thông tư về an ninh CNTT; số văn bản cảnh báo, chỉ đạo về an ninh CNTT của NHNN "dày đặc", lên đến 22 văn bản trong 12 tháng; ngoài việc tham gia các đợt diễn tập quốc gia do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức, năm 2020, NHNN đã tổ chức thành công 02 đợt diễn tập an ninh mạng toàn Ngành, trong đó 01 đợt bằng phương thức trực tuyến do điều kiện cách ly xã hội, với các bài tập huấn luyện liên quan trực tiếp đến hoạt động thực tế của các TCTD đã mang lại hiệu quả thiết thực; NHNN còn làm đầu mối tổ chức nhiều khóa đào tạo chuyên sâu về an ninh mạng và đặc biệt, NHNN đã phối hợp với Bộ Công an tổ chức kiểm tra đột xuất tại hơn 10 TCTD, trung gian thanh toán để qua đó rà soát, hỗ trợ các tổ chức giải quyết các tồn tại, hạn chế về an ninh mạng và có hướng dẫn xử lý chung trong toàn Ngành. Nhờ các hoạt động tích cực như đã nêu trên, tình hình hoạt động về CNTT ngành Ngân hàng trong năm 2020 cơ bản an toàn, không để xảy ra sự cố lớn.

8. Định hướng hoạt động CNTT của NHNN năm 2021

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT của NHNN nói riêng và ngành Ngân hàng nói chung, các nhiệm vụ, định hướng chính cho phát triển CNTT của NHNN năm 2021 và là nền tảng cho các năm tiếp theo như sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở pháp lý tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng toàn diện CNTT, các công nghệ mới của CMCN 4.0 vào các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và từng bước chuẩn hóa hạ tầng CNTT của ngành Ngân hàng.

Thứ hai, xây dựng Chính phủ điện tử tại NHNN nhằm đáp ứng yêu cầu xử lý thủ tục hành chính, dịch vụ công và kết nối chia sẻ dữ liệu của NHNN phù hợp với lộ trình của Chính phủ. Ứng dụng hiệu quả CNTT theo chiều sâu cho toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ NHNN, trước mắt ưu tiên cho công tác thanh tra, giám sát và thanh toán.

Thứ ba, tự động hóa, giám sát liên tục hạ tầng và các hệ thống thông tin NHNN đảm bảo hoạt động ổn định, liên tục, an toàn trên cơ sở ứng dụng các thành tựu công nghệ của CMCN 4.0.

Thứ tư, xây dựng nền tảng an ninh mạng NHNN chuyên nghiệp, hiện đại, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời các sự cố an ninh mạng, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin phục vụ tốt cho các hoạt động nghiệp vụ của NHNN và hỗ trợ công tác giám sát, ứng cứu sự cố an toàn thông tin ngành Ngân hàng.

Thứ năm, tổ chức nguồn nhân lực CNTT của NHNN đáp ứng nhu cầu phát triển CNTT của NHNN và quản lý nhà nước về CNTT của ngành Ngân hàng.


ThS. Lê Mạnh Hùng

Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin - Ngân hàng Nhà nước

Chuyên đề Công nghệ và Ngân hàng số, số 01/2021


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Giải pháp định danh điện tử và trí tuệ nhân tạo tăng cường an toàn Mobile Banking ở Việt Nam

Bài viết đề cập đến rủi ro an ninh mạng trong dịch vụ Mobile Banking tại Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo mật toàn diện kết hợp GNN-GCD với các công nghệ định danh như IMEI, CCCD và VNeID. Hệ thống còn tích hợp mã HLV và thuật toán AES 256-bit để bảo vệ dữ liệu, giúp nâng cao độ bảo mật và tăng niềm tin người dùng.
Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của tập luật OWASP CRS sử dụng phổ biến trong tường lửa máy chủ ứng dụng Web

Tường lửa dựa trên các tập luật là công cụ phổ biến giúp bảo vệ máy chủ ứng dụng web trước các cuộc tấn công tinh vi từ tin tặc, đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức, doanh nghiệp và ngân hàng. Bài viết này nghiên cứu việc ứng dụng mô hình học máy để đánh giá hiệu quả phát hiện tấn công của OWASP CRS. Đây là một trong những tập luật phổ biến được sử dụng cho tường lửa ứng dụng web.
Chuyển đổi số ngân hàng dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo

Chuyển đổi số ngân hàng dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo

Bài viết phân tích vai trò trọng yếu của AI trong chuyển đổi số ngành Ngân hàng, giúp tối ưu vận hành, quản lý rủi ro và nâng cao trải nghiệm khách hàng. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra những thách thức về bảo mật dữ liệu và đề xuất định hướng phát triển bền vững
Ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Bài viết này phân tích thực trạng ứng dụng Blockchain trong nghiệp vụ ngân hàng tại Việt Nam và gợi ý định hướng phát triển trong tương lai.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Chuyển đổi số mang lại cơ hội phát triển cho ngành Ngân hàng nhưng cũng làm gia tăng rủi ro xâm phạm dữ liệu cá nhân. Dù pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã có cải thiện, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Bài viết phân tích thực trạng pháp lý hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện phù hợp với xu hướng chuyển đổi số.
Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Đề xuất xây dựng các mô hình tài chính phi tập trung trong trung tâm tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết nghiên cứu tổng quan về tài chính phi tập trung và các mô hình phổ biến, phân tích lợi ích, thách thức, đồng thời đề xuất mô hình phù hợp để phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính quốc tế có sức cạnh tranh khu vực và toàn cầu.
Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng trong ngành Ngân hàng: Cơ hội và thách thức

Siêu ứng dụng và hệ sinh thái ngân hàng không chỉ là xu hướng công nghệ mà đang tái định hình căn bản ngành tài chính - ngân hàng, với mục tiêu mang lại trải nghiệm tích hợp, cá nhân hóa và bao trùm. Mặc dù mở ra tiềm năng lớn trong việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ và thúc đẩy đổi mới, tuy nhiên, sự kết hợp này cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng trong tương lai.
Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Chuyển đổi số ngân hàng và bài toán an ninh, an toàn thông tin

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã nỗ lực không ngừng và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong công cuộc chuyển đổi số và đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng gặp những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời tăng cường hợp tác các tổ chức tài chính quốc tế trong nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng các công nghệ mới.
Xem thêm
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc