Lạm phát và xu hướng điều hành của các ngân hàng trung ương trên thế giới

Nghiên cứu - Trao đổi
Cùng với đà phục hồi các hoạt động kinh tế, lạm phát toàn cầu đã tăng trở lại và có thể tiếp tục leo thang trong những tháng cuối năm 2021, đặt ra nhiều thách thức chính sách đối với các ngân hàng tr...
aa

Cùng với đà phục hồi các hoạt động kinh tế, lạm phát toàn cầu đã tăng trở lại và có thể tiếp tục leo thang trong những tháng cuối năm 2021, đặt ra nhiều thách thức chính sách đối với các ngân hàng trung ương (NHTW) trên toàn cầu. Để giảm bớt rủi ro lạm phát, các NHTW đang có xu hướng bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ, chấm dứt thời gian dài thực hiện các biệnpháp nới lỏng chưa có tiền lệ.

Khái quát về tình hình lạm phát trên thế giới

Trước đại dịch, lạm phát toàn cầu giảm từ 16,9% vào năm 1974 xuống mức đáy 1,8% vào năm 2015 cùng với xu hướng giảm giá dầu và tăng trở lại lên 2,3% vào năm 2019. Tại các nước đang phát triển và mới nổi (EMDEs), lạm phát giảm từ đỉnh cao 17,5% vào năm 1974 xuống 2,9% vào năm 2019, xu hướng giảm lạm phát bắt đầu từ giữa những năm 1980 tại các nước phát triển (AEs) và từ giữa những năm 1990 tại EMDEs. Tại các nước thu nhập thấp (LICs), lạm phát giảm từ 25,2% vào năm 1994 xuống 3,5% vào năm 2019.

Năm 2020, đại dịch Covid-19 đã đẩy kinh tế toàn cầu vào tình trạng suy thoái trầm trọng nhất kể từ sau Thế chiến II, với mặt bằng giá cả giảm tới 0,9% trong thời gian từ tháng 01/2020 đến tháng 03/2020. Trong đó, lạm phát tại AEs và EMDEs lần lượt giảm 1,2% và 1,6%. Từ tháng 5/2020, lạm phát bắt đầu tăng tốc và vượt mức giá cả trước đại dịch, cả tại AEs và EMDEs. Cũng từ tháng 5/2020, giá thực phẩm bắt đầu tăng cao, giá dầu thế giới và lạm phát lõi bật tăng trở lại. Tuy nhiên, diễn biến lạm phát có sự khác biệt giữa các nhóm quốc gia, nhất là tại EMDEs với mức tăng tới 1% trong giai đoạn từ tháng 5/2020 đến tháng 3/2021, trước khi thu hẹp từ tháng 4/2021 khi lạm phát tăng trên diện rộng. Tính đến tháng 4/2021, lạm phát đã tăng 0,3-0,6% so với trước đại dịch, cả tại AEs và EMDEs.

Trong năm 2021, GDP toàn cầu được kỳ vọng tăng trên 5% và giá dầu sẽ tăng cao hơn năm trước, lạm phát toàn cầu được dự báo tăng từ 2,5% trong năm 2020 lên 3,9% vào năm 2021, tương đương với mức lạm phát trung bình trong giai đoạn 2011-2013 sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tại AEs, GDP và giá dầu cùng tăng theo mức lạm phát 1,8% trong năm 2021, thấp hơn mục tiêu đề ra tại nhiều nước, nhưng cao hơn tỷ lệ trung bình 1,4% trong thập kỷ trước. Tại EMDEs, GDP và giá dầu được dự báo tăng theo mức lạm phát 4,6% trong năm 2021 từ mức 3,21% trong năm 2020, khá cao so với mức lạm phát trung bình 3,8% trong thập kỷ trước, nhưng thấp xa lạm phát mục tiêu 5,1%.

Trái với lạm phát ngắn hạn, lạm phát kỳ vọng trong dài hạn được dự báo sẽ ổn định ở mức thấp 2,3% với tỷ lệ lần lượt tại AEs và EMDEs là 1,8% và 3,7%, bằng một nửa mức lạm phát trong thập kỷ trước. Lạm phát kỳ vọng ổn định ở mức thấp phần nào bắt nguồn từ các nỗ lực của EMDEs trong việc cải thiện khung khổ chính sách kinh tế vĩ mô như mục tiêu lạm phát, các quy định về tài khóa, và cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn. Tuy nhiên, một khi lạm phát kỳ vọng bắt đầu tách khỏi lạm phát mục tiêu của các NHTW, lạm phát có thể tăng quá mức trong giai đoạn trung hạn.

Trong những tháng gần đây, áp lực lạm phát tăng cao, nổi bật là đối với các mặt hàng lương thực - thực phẩm, nguyên nhân là do tình trạng gián đoạn nguồn cung, lượng tiền tiết kiệm tăng cao, thiệt hại chồng chất do bão, lũ, cháy rừng gây ra tại nhiều nơi trên thế giới. Trong đó, hạn hán kéo dài tại Mỹ đã đẩy giá nông nghiệp, thực phẩm đầu vào leo thang với mức tăng lên tới 15% trong tháng 8/2021. Những yếu tố này đã tiếp thêm áp lực tăng giá thực phẩm, vốn đã cao do giá hàng hóa và chi phí vận chuyển tăng, thậm chí có nguy cơ tiếp tục tăng cao hơn. Thêm vào đó, hoạt động đầu cơ, tích trữ hàng hóa chiến lược trong thời gian gần đây trên phạm vi toàn cầu đang gia tăng đã đẩy giá cả các mặt hàng chiến lược, thiết yếu tăng cao, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế thế giới.

Theo đánh giá của Tổ chức Nông nghiệp và Thực phẩm thuộc Liên hợp quốc (FAO), chỉ số giá thực phẩm trong tháng 8/2021 tăng 38% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng cao nhất kể từ năm 2011. Sau khi tăng 4,6% trong năm 2019, lạm phát giá thực phẩm tăng 6,3% trong năm 2020, chủ yếu là do dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến các chuỗi cung ứng toàn cầu, bao gồm các chuỗi cung ứng và phân phối thực phẩm. Trầm trọng nhất là tại Nam Mỹ với mức tăng 21%, tiếp đến là châu Phi và Nam Á (12%), châu Đại Dương (8%). FAO cảnh báo, giá thực phẩm sẽ tăng cao trong những tháng cuối năm 2021 và sẽ tác động nghiêm trọng đến các nước nghèo.

Nhóm chuyên gia thuộc Berstein dự báo, giá cả hàng tiêu dùng tại Mỹ sẽ tăng 6,1% trong năm nay, vượt xa mức tăng 0,7% trong năm 2020. Liên đoàn Bán lẻ Anh cũng dự báo, giá thực phẩm tại châu Âu sẽ tiếp tục tăng cao trong những tháng cuối năm 2021. Theo Boston Consulting Group, an ninh lương thực là vấn đề nhạy cảm tại nhiều nơi trên thế giới, và lợi nhuận thấp đồng nghĩa với các động thái chuyển phần chi phí tăng thêm sang người mua.

Đại dịch Covid-19 cũng tác động đến thị trường thương mại điện tử. Theo báo cáo gần đây của Tập đoàn công nghệ Adobe đăng tải trên trang Vietstock, giá cả hàng hóa mua sắm trực tuyến đã tăng 2,3% trong giai đoạn 12 tháng tính đến cuối tháng 6/2021. Đà tăng này tiếp tục củng cố trong tháng 7 với mức tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2020, trái ngược hoàn toàn với xu hướng trước đại dịch. Trong giai đoạn từ 2015-2019, giá cả mua sắm trực tuyến đã giảm trung bình 3,9%/năm. Phát biểu trên kênh CNN, nguyên Chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế Nhà Trắng thời Chính quyền Obama - Austan Goolsbee cho rằng, lạm phát tăng cao trên thị trường internet có thể cho thấy, các báo cáo lạm phát hàng tháng sắp tới của Chính phủ Mỹ không có dấu hiệu giảm nhiệt, đòi hỏi Cục Dữ trữ liên bang (Fed) phải theo dõi sát sao những gì đang diễn ra trên thị trường trực tuyến.

Áp lực tăng lạm phát có thể dẫn đến những lo ngại về nguy cơ lạm phát tăng cao và kéo dài tại AEs, buộc NHTW phải bù đắp chênh lệch lãi suất để chia sẻ rủi ro và giảm chi phí vay vốn. Những rối loạn tài chính này sẽ gây tổn thương rất lớn cho các EMDEs, nhất là đối với những nước có nợ nần ở mức cao và kinh tế phục hồi chậm chạp. Những khó khăn trên thị trường tài chính (như tỷ giá giảm sâu và dòng vốn ra tăng cao) có thể sẽ buộc các EMDEs phải nhanh chóng thắt chặt chính sách tiền tệ, những động thái này sẽ cản trở tiến trình phục hồi kinh tế.

Hiện tại, thị trường kỳ vọng lạm phát dài hạn tiếp tục ổn định ở mức thấp. Tuy nhiên, một vài yếu tố mang tính cơ cấu (thay đổi nhân chủng học, các chuỗi cung ứng toàn cầu) vốn đã gây áp lực giảm lạm phát trong 5 thập kỷ qua bắt đầu suy yếu dần trong bối cảnh căng thẳng thương mại, dân số già hóa, đầu tư và năng suất yếu ớt. Khi những tác động của những yếu tố này giảm dần, lạm phát cao trong ngắn hạn có thể kéo dài, làm tăng kỳ vọng lạm phát dài hạn.

Cho tới nay, các báo cáo của các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế đều dự báo, lạm phát tại AEs sẽ dao động trong biên độ (lạm phát mục tiêu) do các NHTW đề ra. Tuy nhiên, áp lực lạm phát tại EMDEs có thể tăng cao và vượt quá mục tiêu đề ra, gây khó khăn cho việc lựa chọn chính sách, nhất là tại những nước có lạm phát tăng cao triền miên.

Động thái chính sách của các NHTW

Để kiểm soát lạm phát, các NHTW chủ chốtđang cân nhắc rút dần chính sách tiền tệ nới lỏng theo hướng cắt giảm dần các gói hỗ trợ tài chính, nhưng có vẻ vẫn duy trì chính sách lãi suất thấp thêm một thời gian. Trong khi đó, một số NHTW tại các nước mới nổi bắt đầu rút dần các gói hỗ trợ và tăng lãi suất, và nhiều EMDEs sẽ có động thái tương tự vào cuối năm nay.

Tại Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2021 tăng 0,9% - mức tăng cao nhất trong 13 năm qua; tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2020 - mức tăng cao nhất kể từ tháng 8/2008. Trong tháng 7/2021, đà tăng CPI tại Mỹ đã chững lại, phát tín hiệu về khả năng lạm phát đã đạt đỉnh. Tại cuộc họp diễn ra trong hai ngày 27-28/8/2021, Fed tiếp tục nhận định, áp lực lạm phát sẽ giảm dần, và cơ quan này đang cân nhắc khả năng rút dần chính sách tiền tệ nới lỏng từ cuối năm nay, nhưng không đưa ra mốc thời gian cụ thể và chưa tăng lãi suất. Theo nhận định của các chuyên gia, Fed có thể quyết định cắt giảm quy mô chương trình mua trái phiếu (hiện đang ở mức 120 tỷ USD/tháng) tại cuộc họp trong hai ngày 21-22/9/2021, qua đó sẽ kiểm soát được lạm phát.

Từ đầu năm đến nay, NHTW châu Âu (ECB) phải liên tiếp điều chỉnh nâng dự báo lạm phát trong năm 2021 từ 1,2% lên 1,5% và gần đây lên 1,9%. Tại cuộc họp tháng 7/2021, ECB đưa ra dự báo lạm phát năm 2021 lên 2%, nhưng hiện nay đã vượt ngưỡng mục tiêu này. Theo ước tính công bố ngày 31/8/2021, sau khi tăng 2,2% trong tháng 7/2021, CPI trong tháng 8/2021 tại khu vực đồng Euro đã tăng 3% so với cùng kỳ năm trước và là mức lạm phát cao nhất trong 10 năm qua, chất thêm áp lực lên ECB. Ngày 09/9/2021, ECB đã bước đầu điều chỉnh gói kích thích kinh tế trong đại dịch nhưng vẫn đảm bảo sẽ tiếp tục hỗ trợ các thị trường trong bối cảnh sự lây lan nhanh chóng của biến thể Delta đang phủ bóng đen lên bức tranh phục hồi kinh tế Eurozone.Theo đó, ECB quyết định sẽ giảm nhịp độ mua trái phiếu hàng tháng khi các hoạt động kinh tế đang dần phục hồi và lạm phát tăng cao.Theo dự báo mới của ECB, kinh tế Eurozone sẽ tăng trưởng 5% trong năm 2021, cao hơn mức 4,6% được đưa ra trong dự báo trước đó.

Dữ liệu của NHTW Nhật Bản (BoJ) cho thấy, chỉ số giá hàng hóa doanh nghiệp (CGPI) - đo lường mức giá mà các công ty tính phí cho hàng hóa và dịch vụ, đã tăng 5,6% trong tháng 7/2021 so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với dự báo trung bình của thị trường là tăng 5%. Chỉ số này tăng tốc từ mức tăng 5% trong tháng 6/2021 và đánh dấu tốc độ tăng nhanh nhất kể từ tháng 9/2008, khi chỉ số này tăng 6,9%. So với tháng trước, giá bán buôn đã tăng 1,1% trong tháng 7/2021 sau khi tăng 0,6% trong tháng 6/2021, mức tăng lớn nhất kể từ tháng 10/2019. Mặc dù kinh tế có dấu hiệu cải thiện, BoJ chưa có ý định thắt chặt chính sách tiền tệ, nguyên nhân chủ yếu là do biến thể Delta lan rộng tại quốc gia này.

Trong thời kỳ đại dịch, nhiều NHTW tại AEs đã tái thực hiện hoặc mở rộng chương trình mua tài sản quy mô lớn, nhiều nước thuộc nhóm EMDEs cũng bắt đầu triển khai chương trình mua tài sản. Ngoài ra, nhiều nước tung ra các chương trình hỗ trợ tài khóa chưa có tiền lệ. Nếu không kịp rút lui những chương trình hỗ trợ này trước khi nhu cầu tăng cao hơn khả năng cung ứng tiềm năng, lạm phát có thể sẽ tăng tốc. Để kiềm chế áp lực tăng lạm phát, nhiều nước EMDEs trên thế giới có xu hướng ổn định mặt bằng lãi suất hiện hành và cân nhắc tăng lãi suất nhằm đảm bảo lạm phát tăng trong giới hạn mục tiêu đề ra và kỳ vọng của thị trường. Do triển vọng kinh tế lạc quan và có dấu hiệu phục hồi vững chắc, một số NHTW quyết định tăng lãi suất. Trái lại, hầu hết các nền kinh tế yếu liên tiếp tăng lãi suất, thậm chí cao hơn kỳ vọng, mà không ngoài mục tiêu là để kiềm chế lạm phát. Nhằm kiềm chế lạm phát trong tầm kiểm soát, một số thị trường mới nổi hàng đầu đã tăng mạnh lãi suất trong năm nay. Vào trung tuần tháng 6/2021, hai NHTW lớn gồm Brazil và Nga cũng đều nâng lãi suất lần thứ ba trong năm nay, với tổng mức tăng sau ba đợt lần lượt là 2,25% và 1,25%, lên mức tương ứng 4,25% và 5,5%. Cả hai quốc gia này cũng phát đi tín hiệu, tiếp tục tăng lãi suất trong những tháng tới. Đáng lưu ý, Brazil đối mặt với mức lạm phát 8%, trong khi lạm phát của Nga ở mức 6% trong tháng 6/2021.

Tại Trung Quốc, điều kiện thời tiết khắc nghiệt và các đợt bùng dịch Covid-19 đã làm gián đoạn hoạt động sản xuất và vận tải tại nhiều khu vực trong nền kinh tế. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7/2021 chỉ tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2020, mức thấp nhất trong vòng 11 tháng qua; tình trạng thất nghiệp cũng tăng tốc lên tỷ lệ 16,2% - mức cao nhất trong vòng một năm qua. Ngày 16/8/2021, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC) đã bơm hàng tỷ nhân dân tệ (CNY) thông qua các khoản cho vay trung hạn (MLF) vào hệ thống tài chính trong nước, trong khi giữ nguyên lãi suất chủ chốt và lãi suất đối với các khoản MLF trị giá 600 tỷ CNY (gần 93 tỷ USD) đối với một số tổ chức tài chính ở mức 2,95%. Trong tháng trước, PBC đã bất ngờ cắt giảm dự trữ bắt buộc của các ngân hàng. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sự bùng phát trở lại của Covid-19 kèm theo các điều kiện thời tiết khắc nghiệt và đà giảm tốc của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đòi hỏi phải áp dụng các giải pháp chính sách nới lỏng hơn nữa.

Lạm phát tại Việt Nam và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Sự bùng phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ tư cùng với các đợt giãn cách liên tiếp đã khiến cho tình hình kinh tế - xã hội tháng 8/2021 gặp nhiều khó khăn, giá lương thực, thực phẩm tăng chủ yếu tại các địa phương thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2021 tăng 0,25% so với tháng trước, tăng 2,51% so với tháng 12/2020 và tăng 2,82% so với tháng 8/2020. Tuy nhiên, tính chung 8 tháng năm 2021, CPI tăng 1,79% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016; lạm phát cơ bản 8 tháng chỉ tăng 0,9% - mức thấp nhất kể từ năm 2011.Thời gian qua, các chính sách, biện pháp kiểm soát lạm phát, giá cả hàng hóa của Chính phủ đã được thực hiện tốt. Cho đến nay, với mức lạm phát ở mức thấp như vậy, Việt Nam vẫn còn dư địa để điều hành giá cả thị trường những tháng cuối năm. Nếu không có biến động lớn, lạm phát trong năm nay sẽ chỉ dao động dưới 4% như mục tiêu đề ra.

Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) giảm lãi suất cho vay nhằm chia sẻ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân. Trong năm 2020, NHNN đã điều chỉnh giảm 3 lần các mức lãi suất điều hành, tổng mức giảm 1,5-2,0%/năm, giảm 0,6-1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng; giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên của TCTD đối với khách hàng với tổng mức giảm là 1,5%/năm (hiện ở mức 4,5%/năm). Cho đến nay, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản và tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, làm cơ sở để tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Đồng thời, NHNN đã xem xét và linh hoạt điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng theo đề nghị của các TCTD và diễn biễn thị trường. Ngày 07/9/2021, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 đãkéo dài thời gian cơ cấu lại nợ thêm 6 tháng (đến ngày 30/6/2022).

Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các TCTD triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch, như: Tiếp tục cắt giảm chi phí hoạt động, điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, giảm chỉ tiêu lợi nhuận, không chia cổ tức bằng tiền mặt năm 2021 để tập trung giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp và người dân, nhất là đối với các khoản cho vay cũ và các khoản cho vay trung và dài hạn; chủ động thực hiện hệ thống các giải pháp hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do dịch Covid-19 và kịp thời xây dựng, triển khai các giải pháp mới trên cơ sở bám sát diễn biến thực tế của đại dịch.Cho đến nay, mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm tổng cộng khoảng 1,4%/năm (trong năm 2020 giảm 1%/năm), và tiếp tục được hệ thống ngân hàng triển khai quyết liệt trong thời gian tới.

Trong điều kiện lạm phát được dự báo ở mức thấp hơn mục tiêu, kinh tế tiếp tục bị tác động nặng nề từ dịch Covid-19, chính sách tiền tệ sẽ định hướng tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh. Cụ thể là, NHNN cần tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát bình quân khoảng 4%; theo dõi chặt chẽ diễn biến lạm phát, thị trường trong và ngoài nước để chuẩn bị phương án điều hành, nếu lạm phát tăng nhanh hơn dự kiến; điều hành lãi suất phù hợp với điều hành cân đối vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ tạo điều kiện để giảm chi phí vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế; điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ đảm bảo phù hợp với diễn biến thị trường, cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ; tăng dự trữ ngoại hối nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi; ưu tiên tháo gỡ khó khăn cho các ngành bị ảnh hưởng nặng bởi Covid-19, đồng thời, đảm bảo an toàn nguồn vốn, không gây áp lực tăng nợ xấu. Chủ động triển khai các giải pháp tiền tệ và tín dụng để thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế, tập trung vốn tín dụng cho các dự án, các lĩnh vực có sức lan tỏa, tạo động lực cho phát triển kinh tế.

Có thể nói, đại dịch Covid-19, thời tiết bất lợi và các gói kích thích kinh tế, các gói nới lỏng định lượng, nhất là tại Mỹ đã gây áp lực tăng lạm phát. Tuy nhiên, hầu hết các NHTW trên thế giới đều nhận thức rõ thách thức này và có xu hướng bắt đầu thắt chặt chính sách, chấm dứt thời gian dài thực hiện các biện pháp nới lỏng chưa có tiền lệ.


Nguồn tham khảo: IMF, NDH, Ngân hàng Thế giới, Website NHNN, Tin nhanh chứng khoán, Tổng cục Thống kê, Vietstock.

ThS.Vũ Xuân Thanh (NHNN)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Xem thêm
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng