Kinh nghiệm phát hành tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc

Công nghệ & ngân hàng số
Tháng 8/2019, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) công bố tại Diễn đàn Tài chính 40 (China Finance 40 Forum) của Trung Quốc là chuẩn bị phát hành đồng tiền kỹ thuật số riêng (Central Bank Digital ...
aa

Tháng 8/2019, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) công bố tại Diễn đàn Tài chính 40 (China Finance 40 Forum) của Trung Quốc là chuẩn bị phát hành đồng tiền kỹ thuật số riêng (Central Bank Digital Curency -CBDC), tiến tới việc trở thành quốc gia phát hành đồng tiền kỹ thuật số riêng đầu tiên trên thế giới.

Bằng việc phát hành đồng tiền kỹ thuật số của riêng mình, PBoC có thể sử dụng đồng tiền để toàn cầu hóa đồng Nhân dân tệ, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung tiếp tục diễn ra hiện nay. Ngoài ra, việc phát hành CBDC còn hướng đến mục tiêu tăng cường hiệu quả cho Chính sách tiền tệ trong khi vẽ lên bức tranh toàn cảnh về kinh tế số trên lãnh thổ Trung Quốc.

Các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam có thể nghiên cứu về việc phát hành đồng tiền kỹ thuật số riêng quốc gia Trung quốc, từ đó rút ra giải pháp riêng cho mỗi quốc gia.

Tìm hiểu về CBDC

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), tiền kỹ thuật số bao gồm nhiều loại được thể hiện trong một biểu đồ gọi là “money flower”. Biểu đồ bao gồm 4 phân vùng có thể giao nhau, định nghĩa bản chất của đồng tiền (như tiền gửi, token kỹ thuật số và tiền mặt) dựa trên 4 trục. Việc phân chia biểu đồ được dựa trên 4 thuộc tính là nhà phát hành (Ngân hàng Trung ương hoặc các tổ chức khác); hình thái (kỹ thuật số hay vật lý); khả năng tiếp cận (rộng rãi hay hạn chế) và công nghệ (token hay account-based). Tiền mặt và nhiều đồng tiền kỹ thuật số thuộc về loại token-based [1] và số dư tài trong các tài khoản tại các ngân hàng thương mại và Ngân hàng Trung ương là loại dựa trên tài khoản (account-based [2]).

Dựa trên định nghĩa của BIS, 3 phân vùng màu xám có thể được coi như tiền nằm trong định nghĩa của CBDC:

(i) Central Bank Accounts (General Purpose): Một hình thái phổ biến rộng rãi (wide accessible) của CBDC, trong đó mỗi tài khoản Ví của người dùng cuối được mở tại Ngân hàng Trung ương.

(ii) Central Bank Digital Tokens (General Purpose): Một hình thái phổ biến rộng rãi khác của CBDC, tuy nhiên loại hình này được phát hành dựa trên mô hình token-based hay còn gọi là tiền kỹ thuật số. Loại hình CBDC này có cách thức phân phối và thực thi giao dịch khác biệt so với mạng lưới ngân hàng truyền thống.

(iii) Central Bank Digital Tokes (Wholesale Only): Loại hình thứ ba này là loại tiền tệ kỹ thuật số được phát hành trong một phạm vi giới hạn với mục đích để thanh toán theo lô (ví dụ như dùng trong hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống quyết toán chứng khoán,…).

Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tiền kỹ thuật số của PBoC - Di Gang đã tuyên bố, loại tiền kỹ thuật số đang được phát triển sẽ rơi vào loại 1 và 2 thuộc sơ đồ (Hình 1). Qua đó có thể nhận thấy, đồng CBDC của PBoC sẽ mang 2 tính chất quan trọng là được phát hành bởi Ngân hàng Trung ương và phát hành rộng rãi.

Cấu trúc vận hành

Để đảm bảo quyền lực phát hành tiền tệ và khả năng thi hành hiệu quả chính sách tiền tệ, CBDC sẽ chỉ được phát hành bởi Ngân hàng Trung ương, qua đó cho phép tính pháp lý của CBDC như một đồng tiền pháp định. Khác với Libra hay phần lớn các đồng tiền kỹ thuật số khác (được quản lý và vận hành bởi các cộng đồng phân tán), Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có sự kiểm soát tuyệt đối đối với đồng tiền kỹ thuật số của mình. (Hình 2)

PBoC sẽ phê duyệt các yêu cầu về CBDC của các ngân hàng thương mại dựa trên khoản dự trữ bắt buộc. Mô hình phát hành CBDC tương đồng với mô hình cấp hạn mức trên các hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng, chỉ khác ở điểm thay vì là đồng tiền pháp định (legal tender), mô hình này cấp vốn dưới dạng tiền kỹ thuật số.

Đồng CBDC của Trung Quốc được dự đoán sẽ hoạt động với cấu trúc 2 cấp, bao gồm 2 lớp như sau:

- Lớp thứ nhất: Thể hiện sự tương tác trực tiếp giữa các ngân hàng thương mại và PBoC. PBoC sẽ chỉ phát hành CBDC thông qua các tổ chức này. Trước mắt, các tổ chức này bao gồm: China Construction Bank, The Industrial and Commercial Bank of China, The Bank of China, The Agricultural Bank of China và 3 công ty là Union Pay, Alibaba và Tencent.

- Lớp thứ hai: Thể hiện sự tương tác giữa các tổ chức trung gian và người dùng cuối (người dân và doanh nghiệp). Các tổ chức trung gian có trách nhiệm phân phối và đảm bảo lưu hành CBDC trong xã hội. Quy trình nộp và rút CBDC cũng sẽ tương tự như quy trình nộp, rút tiền của các ngân hàng thương mại. (Hình 3)


Bằng việc thực hiện cấu trúc 2 cấp như trên, PBoC sẽ đạt được mục tiêu thay thế tiền giấy mà không làm ảnh hưởng đến nghiệp vụ phát hành tiền tệ và hệ thống lưu hành tiền tệ hiện tại (cũng dựa trên cấu trúc 2 cấp - ngân hàng thương mại nhận vốn từ NHTW).

Các tính chất tài chính

1. Đồng CBDC với mục tiêu thay thế tiền mặt

Hiện nay có thể dự đoán PBoC đang đặt mục tiêu thay thế số cung tiền M0 (tổng lượng tiền mặt) bằng đồng CBDC với 3 ứng dụng (i) thanh toán bán lẻ; (ii) bù trừ liên ngân hàng và (iii) thanh toán xuyên biên giới (đồng CBDC có thể tăng cường tốc độ và giảm chi phí đáng kể cho các giao dịch thanh toán xuyên biên giới.

Ngoài ra, hệ thống CBDC có (i) chi phí vận hành thấp hơn nhiều so với hệ thống dựa trên tiền mặt (bao gồm các chi phí in, đúc tiền, vận hành, duy trì,..) và (ii) khả năng phòng chống rửa tiền và giảm thiểu hành vi vi phạm pháp luật tốt hơn do việc xác minh toàn bộ người dùng cuối và khả năng truy soát tất cả mọi giao dịch. Phó Vụ trưởng Vụ Thanh và Quyết toán của PBoC cũng đã nêu: “rủi ro của tiền mặt trong rửa tiền và các hoạt động phi pháp khác là cao”.

Tóm lại, PBoC coi thiết kế của đồng CBDC của Trung Quốc là một phiên bản nâng cấp của số cung tiền M0 với nhiều chức năng hơn và khả năng phòng chống rửa tiền, giao dịch bất hợp pháp tốt hơn.

2. Hệ thống dự trữ toàn bộ (full-reserve system)

Khác với mô hình “dự trữ một phần” trong hệ thống ngân hàng truyền thống, đồng CBDC của Trung Quốc sẽ yêu cầu các tổ chức tín dụng duy trì tỷ lệ dữ trự 100% (thông qua cơ chế chuyển đổi từ tiền pháp định sang CBDC như đã nêu ở mục trên). Do đó, đồng CBDC sẽ không có số nhân tiền mà chỉ đóng vai trò là trung gian giữa (i) PBoC và các ngân hàng thương mại; (ii) giữa các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, người dùng cuối.

Do đồng CBDC có mục tiêu là thay thế M0, đồng tiền này sẽ không bị phát hành quá mức (over-issued) mà chỉ được phát hành đúng theo quy trình phát hành tiền giấy với hệ thống ngân hàng thương mại phải duy trì giấy tờ có giá tại NHTW.

Do đó, các công cụ chính sách tiền tệ sẽ không bị tác động và đồng tiền kỹ thuật số này sẽ không có tác động xấu đến chính sách tiền tệ của PBoC. Thêm nữa, đồng CBDC còn làm tăng thêm sức ảnh hưởng của PBoC trên thị trường tài chính.

3. Tính chất mang lãi suất (interest-bearing)

Đồng CBDC sẽ không phát sinh bất kỳ khoản lãi nào của NHTW khi không nằm trong các tổ chức tín dụng. Bằng cách này, đồng CBDC không cạnh tranh với tiền gửi ngân hàng và sẽ không có tác động đến mặt này của nền kinh tế. Lý do cho việc này là tài sản có thanh khoản tốt nhất và rủi ro thấp nhất ngoài tiền mặt là tiền gửi ngân hàng, trường hợp NHTW chi trả lãi suất cho người nắm giữ CBDC thì sẽ gây nên các biến động phát sinh đối với thị trường tài chính (ví dụ như người dân không gửi tiền vào ngân hàng thương mại mà giữ trong Ví riêng) do CBDC có thanh khoản tốt hơn tiền gửi ngân hàng.

Mô hình kỹ thuật

Nội dung này thu thập từ các đề xuất thiết kế ban đầu cùng tài liệu nghiên cứu của PBoC và một số viện nghiên cứu độc lập khác.

a. Cơ chế ẩn danh có kiểm soát (Manageable anonymity mechanism)

Đồng CBDC của Trung Quốc sẽ được thiết kế cho phép chuyển tiền trực tiếp giữa hai đối tác mà không cần tài khoản ngân hàng (khác so với các hệ thống thanh toán và chuyển khoản truyền thống tài các quốc gia khác).

Mục tiêu cuối cùng của CBDC là thay thế giao dịch của tiền mặt trong khi vẫn giữ tính chất “ẩn danh có kiểm soát”. Cụ thể là tại lớp thứ 1 của mạng lưới CBDC, các tổ chức tín dụng cần phải đăng ký quản lý trong khi các giao dịch tại lớp thứ 2 sẽ có thể ẩn danh dưới góc nhìn của người sử dụng. Quan chức của PBoC tin rằng việc này sẽ có lợi cho việc lưu hành và giao dịch quốc tế của đồng Nhân dân tệ.

b. Ứng dụng thuật toán mã hóa

Trong báo cáo nghiên cứu Viện nghiên cứu tiền tệ kỹ thuật số của PBoC năm 2018, đồng CBDC của Trung Quốc sẽ được lưu trữ trong các ví kỹ thuật số dưới dạng sổ cái phân tán và được phê duyệt bởi các thuật toán mã hóa và đồng thuận (consensus).

Mô hình được đề xuất của đồng CBDC được thể hiện theo:

EXPCBDC=Sign(Crypto(ATTR))

ATTR ∈ {id,value,owner,issuer, ExtSet}.

EXPCBDC là biểu thức mã hóa của CBDC.

ATTR thể hiện bộ thuộc tính trong biểu thức, bao gồm id của người sử dụng, value = giá trị số tiền, owner = thông tin chủ sở hữu, issuer = thông tin của nhà phát hành, ExtSet = thuộc tính phụ (có khả năng mở rộng).

Crypto là hàm mã hóa của bộ thuộc tính.

Sign là hàm ký.

Quy trình cơ bản là mã hóa thông tin metadata, sau đó thực hiện ký điện tử và xuất ra chuỗi mã hóa đầu ra của đồng CBDC.

Liên quan đến Ví kỹ thuật số của đồng CBDC, hiện tại chưa có thông tin nào liên quan đến vận hành của Ví. Tuy nhiên có thể dự đoán được là Ví của đồng CBDC có thể sẽ được sử dụng trên các thiết bị di động, máy tính hay thẻ vật lý.

c. Chưa có lộ trình kỹ thuật cụ thể, blockchain sẽ là một trong những phương án

Theo Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán và Quyết toán của PBoC, lớp thứ nhất của mạng lưới sẽ được vận hành trên mạng lưới với công nghệ sổ cái phân tán. Tuy nhiên, chưa rõ lớp thứ hai sẽ được xây dựng trên nền tảng blockchain hay không. Do nhiệm vụ vận hành lớp thứ hai được giao cho các tổ chức tín dụng, có khả năng đồng CBDC của Trung Quốc có thể được chạy trên nhiều mạng lưới cùng một lúc.

Mục tiêu của mạng lưới 2 lớp hỗ trợ cho nền tảng CBDC là đạt được tốc độ xử lý ít nhất 300.000 giao dịch mỗi giây. Hiện tại, chưa có hệ thống blockchain đã hoạt động thực tế nào đạt được yêu cầu xử lý như trên. Tuy nhiên, tốc độ xử lý này có thể đạt được với cơ chế “chuyển tiếp ngoài chuỗi, hạch toán trên chuỗi” (cơ chế luân chuyển tin điện giữa các node bằng một hệ thống khác song song với blockchain, sau đó các node đẩy hạch toán lên chain).

d. Khả năng tích hợp Hợp đồng thông minh

PBoC tiết lộ rằng đồng CBDC của mình có thể được vận hành với hợp đồng thông minh, nhưng sẽ không áp dụng các hợp đồng mà cung cấp các chức năng vượt quá “các yêu cầu cơ bản về tiền tệ” (basic monetary requirements). Điều này có thể do các lo ngại rằng, các chức năng vượt quá sẽ thêm các giá trị bổ sung cho đồng CBDC và làm biển đổi tính chất đồng CBDC thành một loại chứng khoán hay giấy tờ có giá, từ đó làm giảm tính ổn định và thanh khoản của nó.


Tuy nhiên, định nghĩa về “các yêu cầu cơ bản về tiền tệ” chưa được ban hành. Trong nghiên cứu năm 2017 của Yao Qian (cựu giám đốc của Viện nghiên cứu tiền kỹ thuật số của PBoC) đã nêu: “tiền kỹ thuật số của NHTW phải có khả năng lập trình và mở rộng”. Thêm nữa, nếu đồng tiền kỹ thuật số được tích hợp thêm hợp đồng thông minh giúp cho việc thanh toán tự động và tin cậy hơn, thì điều này sẽ định hướng rõ ràng cho việc phát triển một đồng tiền kỹ thuật số pháp định.

e. Cách tiếp cận “một đồng tiền, hai trung tâm lưu ký và ba trung tâm”

Trong nghiên cứu năm 2018 của mình, Yao Qian mô tả rằng tiền kỹ thuật số của NHTW sẽ được xây dựng theo cách tiếp cận “một đồng tiền, hai trung tâm lưu ký và ba trung tâm”, cơ chế tiếp cận này có thể được giải thích như sau:

(i) “Một đồng tiền”: Là đồng CBDC của Trung Quốc.

(ii) “Hai trung tâm lưu ký”: Là cơ sở dữ liệu phát hành của Ngân hàng Trung ương và cơ sở dữ liệu của Ngân hàng thương mại, bao gồm cả các Ví kỹ thuật số được sử dụng bởi các cá nhân và doanh nghiệp.

(iii) “Ba trung tâm”: Là ba trung tâm phê duyệt, đăng ký và phân tích dữ liệu lớn:

- Trung tâm phê duyệt: PBoC sẽ xây dựng một trung tâm quản lý thông tin tổ chức tín dụng và người dùng cuối [3]. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu của hệ thống, PBoC có thể sẽ chỉ phê duyệt và vận hành thông tin của các tổ chức tín dụng. Trong tương lại, việc phê duyệt người dùng cuối có thể được xây dựng dựa trên các công nghệ như IBC (identification-based cryptography).

- Trung tâm đăng ký: Ghi nhận thông tin định danh của mỗi đơn vị đồng CBDC và người sở hữu tương ứng; hoàn thiện đăng ký CBDC đối với các nghiệp vụ: phát hành, chuyển khoản và mua lại.

- Trung tâm phân tích dữ liệu lớn: hoạt động với mục tiêu phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, phân tích hành vi thanh toán, theo dõi thời gian thực các chỉ số quản lý,… (Hình 4)

f. Bảo mật và riêng tư

Ba trung tâm được thiết kế để đảm bảo các giao dịch CBDC của Trung Quốc được ẩn danh đối với góc nhìn của người sử dụng, trong khi vẫn phòng chống được rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế. Các tổ chức tín dụng tài lớp thứ 2 sẽ có khả năng đóng băng ngay lập tức bất kỳ đồng CBDC hay tài khoản nào nếu liên quan đến các giao dịch đáng ngờ trên mạng lưới.

Theo phiên bản năm 2018 của Yao Qian, trong biểu thức của đồng CBDC chứa User Id và thông tin về chủ sở hữu, theo mô tả này thì mỗi khi phát sinh một giao dịch CBDC, hệ thống sẽ sinh ra một chuỗi CBDC mới chứa thông tin định danh của chủ sở hữu mới.

Kể cả khi giao dịch được ẩn danh ở mức người dùng cuối, nhà quản trị vẫn có thể truy xuất ra toàn bộ lịch sử giao dịch của mỗi đồng CBDC đơn lẻ.

Lợi ích đồng tiền kỹ thuật số riêng của một quốc gia đem lại

Theo nghiên cứu về đồng CBDC của Trung Quốc, đồng tiền pháp định kỹ thuật số được phát hành bởi một quốc gia đảm bảo 1:1 bởi dữ trữ của các ngân hàng thương mại, nó hướng đến mục tiêu thay thế cung tiền M0 thông qua việc số hóa tiền mặt. Một số tính năng chủ yếu của đồng tiền phát hành riêng của quốc gia này này là khả năng ẩn danh, mã hóa và khả năng chuyển tiền không cần thông qua tài khoản ngân hàng (nhưng vẫn cần KYC).

Theo góc nhìn của PBoC, đồng tiền kỹ thuật số này sẽ đem lại các lợi ích như:

(i) Khả năng tính toán chính xác hơn các chỉ tiêu như tỷ lệ lạm phát và các tiêu chí kinh tế vĩ mô khác.

(iii) Tăng khả năng thu thập dữ liệu thời gian thực như việc phát hành, ghi sổ và lưu hành của tiền, góp phần làm tăng sức mạnh cho các công cụ chính sách tiền tệ và hỗ trợ nhà hoạch định chính sách.

(iii) Nâng cao khả năng phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế thông qua hoạt động của Trung tâm dữ liệu lớn.

(iv) Giảm bớt việc cung cấp thông tin, báo cáo giữa các tổ chức tín dụng và nhà quản lý (do các thông tin đã được minh bạch và các hệ thống được tích hợp).

Về tổng thể, đồng tiền riêng của mỗi quốc gia sẽ có khả năng thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả hơn và nắm quyền kiểm soát tốt hơn trên toàn bộ nền kinh tế số. Tuy nhiên, báo cáo này mới chỉ nằm ở mức độ khái quát, còn rất nhiều vấn đề cần tìm hiểu sâu hơn như việc quản lý và vận hành các giao dịch xuyên biên giới.

[1]. Mô hình tiền tệ hay các hệ thống thanh toán token-based dựa vào các bên tham gia để xác thực tính hợp lệ của giao dịch thanh toán hay chuyển tiền. Mô hình này thường được xây dựng kèm với công nghệ Sổ cái phân tán (DLT) hoặc/ và Chuỗi khối (Blockchain).

[2].Trong các mô hình dựa trên tài khoản, danh tính của mỗi người chủ sở hữu tài khoản được xác minh bởi các tổ chức tín dụng.

[3]. Các ngân hàng thương mại sẽ là đơn vị ghi nhận thông tin của người dùng cuối. Tuy nhiên theo Fan Yifei (Phó Thống đốc PBoC) tuyên bố rằng cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Trung Ương cũng sẽ lưu trữ toàn bộ thông tin của người sử dụng. Để giảm thiểu áp lực cho các hệ thống của Ngân hàng thương mại, việc đồng bộ dữ liệu có thể được thực hiện theo cơ chế bất đồng bộ (asynchronous).

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Central bank digital currencies, BIS, Tháng 3/2018.

- https://www.chainnews.com/articles/176343895374.htm.

- https://www.chainnews.com/articles/761536251153.htm.

- https://www.chainnews.com/articles/761536251153.htm.

ThS. Trần Linh

Nguồn: Chuyên đề THNH số 7/2019

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn  tài chính - ngân hàng

Phát triển nguyên tắc bảo mật khả dụng trong Fintech: Giải pháp nâng cao an toàn tài chính - ngân hàng

Bảo mật khả dụng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, giúp cân bằng giữa an toàn và trải nghiệm người dùng. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng bảo mật Fintech tại Việt Nam, xác định những thách thức chính ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Fintech. Bài viết đề xuất bộ nguyên tắc bảo mật khả dụng gồm năm tiêu chí: Minh bạch, xác thực linh hoạt, bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng dụng AI và tối ưu trải nghiệm người dùng. Các nguyên tắc này giúp xây dựng một hệ thống bảo mật an toàn nhưng vẫn bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp với hành vi người dùng Việt Nam. Để triển khai hiệu quả, doanh nghiệp Fintech cần áp dụng nguyên tắc này vào sản phẩm, dịch vụ; ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Fintech để nâng cao tiêu chuẩn bảo mật, còn cơ quan quản lý cần ban hành các quy định phù hợp về bảo mật khả dụng trong Fintech.
Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Ngành Ngân hàng tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần chuyển đổi số quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), là một trong “Bộ tứ chiến lược” hướng đến mang lại sản phẩm tiện tích cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế số, giúp đất nước cất cánh trong thời gian tới. Là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Nghị quyết 57, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là động lực, chủ thể cho sự phát triển.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng